LỜI NÓI ĐẦU
Hơn 90 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các thế hệ cán bộ, đảng viên và Nhân dân Gio Linh đã phát
huy truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, chống giặc ngoại xâm, vượt
qua những hi sinh mất mát, kiên gan bền chí chiến đấu cho nền độc lập của dân
tộc và giải phóng quê hương. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ huyện đã đoàn kết
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân, tạo niềm tin tưởng và động lực mạnh
mẽ, cổ vũ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân huyện nhà vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh phát triển kinh tế
- xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh.
Việc biên tập giáo trình
“Tóm lược Lịch sử Đảng bộ huyện Gio Linh giai đoạn 1930-2020” để đưa vào giảng
dạy tại Trung tâm Chính trị huyện cũng như lồng ghép trong chương trình giảng
dạy và các buổi ngoại khóa tại các trường học trên địa bàn huyện là một việc
làm cần thiết nhằm góp phần tuyên truyền lý tưởng cách mạng của Đảng, vị trí,
vai trò của Đảng bộ huyện Gio Linh trong tiến trình lịch sử của huyện nhà; phát
huy hiệu quả giá trị tinh thần, giá trị lịch sử của các ấn phẩm lịch sử Đảng bộ
huyện đã xuất bản. Đồng thời, qua đó nhằm tuyên truyền, giáo dục lòng yêu quê
hương, đất nước, truyền thống cách mạng, đấu tranh bất khuất của các thế hệ cha
ông qua các thời kỳ; khẳng định những chủ trương đúng đắn và thành tựu nổi bật
trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, công tác
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của huyện Gio Linh từ năm 1930 đến năm 2020
cho cán bộ, đảng viên, hội viên, học sinh và các tầng lớp Nhân dân trên địa bàn
huyện.
Thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ huyện lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025 và ý kiến chỉ đạo của
Thường trực Huyện ủy, trên cơ sở cuốn lịch sử Đảng bộ huyện giai đoạn 1930
– 1975 và 1975 - 2000, Trung tâm Chính trị huyện biên tập giáo trình “Tóm
lược lịch sử Đảng bộ huyện Gio linh giai đoạn 1930 - 2020”. Trong quá trình biên tập, Trung tâm Chính trị đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Thường trực Huyện ủy
và các cơ quan, ban ngành trong huyện để hoàn thiện bản giáo trình. Mặc dù công
việc biên tập được tiến hành nghiêm túc, công phu nhưng cũng không thể tránh
khỏi hạn chế, thiếu sót rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của các đồng chí để Trung tâm Chính trị tiếp tục hoàn thiện trong
thời gian tới.
Xin
trân trọng cảm ơn!
BAN
BIÊN TẬP
Bài 1
KHÁI QUÁT VỀ MẢNH ĐẤT VÀ
CON NGƯỜI GIO LINH
1. Vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên, lịch sử hình thành
Gio Linh là một trong 10
đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Trị, nằm ở vị trí 16050’ đến 170 độ
vĩ Bắc, 106015’ đến 106042’độ kinh Đông, cách Thủ đô Hà
Nội 560 km về phía bắc và Thành phố Hồ Chí Minh 1.170 km về phía nam. Phía tây
giáp huyện Hướng Hóa và huyện Đakrông, phía bắc giáp huyện Vĩnh Linh, phía nam
giáp thành phố Đông Hà, huyện Cam Lộ và huyện Triệu Phong, phía đông giáp biển
Đông, bờ biển dài 15 km từ Cửa Tùng đến Cửa Việt. Tổng diện tích toàn huyện 474
km², dân số trên 80.000 người; gồm 2 thị trấn (Thị trấn Gio Linh và Thị trấn
Cửa Việt) và 15 xã.
Huyện
có địa hình bán sơn địa nghiêng từ tây sang đông, nằm trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa tương đối điển hình nên nắng lắm, mưa nhiều, phân thành 2 mùa rõ
rệt. Ở hai đầu huyện có sông Hiếu và sông Bến Hải. Vùng đồng bằng có sông Cánh
Hòm và sông Bến Ngự nối sông Bến Hải và sông Hiếu tạo thành hệ thống giao thông
thủy và nguồn cung cấp nước tưới quan trọng cho sản xuất nông nghiệp. Đất tự
nhiên ở Gio Linh có đất phù sa tạo thành đồng bằng ven biển, xen giữa những
động cát không ổn định, thường di động và lấn dần đồng ruộng. Đất feralit phát
triển trên nền địa chất đa dạng ở địa hình đồi núi, phân bố chủ yếu phía tây.
Trên địa bàn huyện có
các tuyến giao thông quan trọng như đường sắt Bắc-Nam, Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí
Minh, đường Xuyên Á là một tuyến giao thông quan trọng trong hành lang kinh tế
Đông - Tây, tuyến đường quốc phòng nối huyện Vĩnh Linh với Triệu Phong. Ngoài
ra còn có một số tuyến tỉnh lộ như đường 73, 74, 75, 76 nối các xã miền tây với
vùng đồng bằng và vùng kinh tế ven biển,… Gio Linh có 2 cửa lạch quan trọng
(Cửa Tùng và Cửa Việt). Cảng Cửa Việt trở thành một trung tâm giao lưu buôn
bán. Lâm thổ hải sản khá phong phú, tuy nhiên khoáng sản ở Gio Linh tương đối
nghèo hơn so với các địa phương khác.
Gio Linh từ xa xưa là
một vùng đất của Bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Năm 1069,
Vua Lý Thánh Tông đưa quân vào đánh kinh thành Chăm Pa, bắt được vua Chăm Pa là
Chế Cũ. Vua Chăm Pa xin dâng ba châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh để được trả tự
do. Châu Ma Linh sau này được nhà Lý đổi tên thành Minh Linh, chính là đất hai
huyện Gio Linh, Vĩnh Linh ngày nay. Năm 1835, vua Minh Mạng chia huyện Minh
Linh thành hai huyện Địa Linh (tức huyện Gio Linh)[1] và Minh Linh. Năm 1853, vua Tự Đức
bãi bỏ huyện Địa Linh, sáp nhập 2 tổng An Định, Bái Ân vào phủ Cam Lộ và 2 tổng
An Xá, An Mỹ vào phủ Triệu Phong. Đến tháng 7/1886, Đồng Khánh năm thứ nhất lấy
lại 4 tổng trên lập lại huyện Địa Linh và đổi tên thành huyện Gio Linh.
Trong kháng chiến chống
Pháp huyện Gio Linh chia làm 9 xã[2]. Đến năm 1950 huyện chủ trương nhập 9 xã
trên thành 5 xã gồm: Linh An, Linh Bình, Linh Châu, Linh Giang, Linh Hoà. Sau
năm 1954, chính quyền Ngô Đình Diệm chia Gio Linh thành 6 xã Gio An, Gio Sơn,
Gio Lễ, Gio Mỹ, Gio Hải, Gio Hà và lập thành quận Gio Linh. Xã Vĩnh Liêm và một
phần xã Vĩnh Sơn nằm phía nam sông Bến Hải (thuộc Vĩnh Linh) chia thành 3 xã
Trung Sơn, Trung Hải, Trung Giang và lập thành quận Trung Lương.
Năm 1975, thực hiện chủ
trương di dân xây dựng vùng kinh tế mới, huyện thành lập thêm các xã Gio Hòa,
Gio Bình, Hải Trung, Hải Bình, Hải Thái ở miền tây huyện. Tháng 2/1976, Gio Hải
tách làm hai xã Gio Hải và Gio Việt; Gio Hà tách làm hai xã Gio Mai và Gio
Quang; Gio Lễ tách làm hai xã Gio Châu và Gio Phong. Tháng 3/1976 xã Gio Mỹ
được tách làm hai xã Gio Mỹ và Gio Thành. Ngày 17/3/1976, xã Trung Tân
được thành lập, gồm các thôn: Thủy Khê và Cẩm Phổ của xã Trung Giang và Bách
Lộc, Xuân Mỵ của xã Trung Hải.
Tháng 7/1977, Hội đồng
Nhà nước quyết định nhập 2 huyện Gio Linh, Vĩnh Linh và 10 xã huyện Cam Lộ
thành huyện Bến Hải[3]. Ngày 23/3/1990, Hội đồng Bộ trưởng ra
Quyết định số 91/HĐBT tách huyện Bến Hải thành 2 huyện Gio Linh[4] và Vĩnh Linh.
Thực hiện Nghị quyết số
18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của BCH Trung ương (khóa XII) “về một số vấn đề
về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, huyện Gio Linh hiện nay gồm 15 xã và 02 thị
trấn[5].
2. Đặc điểm kinh tế, văn
hóa, xã hội
Mặc dù điều kiện khí hậu
khắc nghiệt, bên cạnh nghề nông là nghề chủ yếu, lâu đời và nhiều ngành
nghề thủ công truyền thống như đan lát, thủ công mỹ nghệ, dệt, làm
nón… thì ngày nay, kinh tế Gio Linh phát triển đa dạng. Do địa hình chia
làm ba vùng rõ rệt nên kinh tế huyện phát triển với ba tiểu vùng: vùng trung
du, miền núi (phù hợp với việc trồng cây lâu năm, chăn nuôi đại gia súc); vùng
đồng bằng (chủ yếu trồng lúa, cây ngắn ngày, chăn nuôi, trang trại…); vùng cát,
miền biển (phát triển đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy, hải sản). Trong đó
kinh tế biển giữ vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Mạng lưới
thương mại – dịch vụ đã phát triển từ sớm thì nay cùng với hệ thống chợ và các
dịch vụ tổng hợp ngày càng phát triển. Điểm nổi bật là ngày nay Gio
Linh đã hình thành các khu kinh tế
động lực như Khu Công nghiệp Quán Ngang, khu dịch vụ du lịch, nghỉ
dưỡng Cửa Việt, nhà máy điện năng lượng Mặt trời và đang hình
thành khu nghỉ dưỡng do Công ty TNT và FLC đầu tư… Thời gian qua, trong bối
cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, biến đổi khí hậu,
hạn hán, bão lụt, sự cố môi trường biển, dịch bệnh Covid-19... đã tác động bất
lợi đến sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội nhưng Đảng bộ, chính quyền và
Nhân dân toàn huyện đã phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành
động đưa nền kinh tế của huyện có bước phát triển khá toàn diện, khai thác hiệu
quả các tiềm năng, lợi thế vốn có của địa phương.
Gio Linh nằm trên các
tuyến, các tour du lịch tham quan hấp dẫn như: tam giác du lịch Cửa Tùng - Cửa
Việt - đảo Cồn Cỏ; Cửa Việt - Cửa Tùng - Hiền Lương, các tour du lịch hoài niệm
Dốc Miếu - Hiền Lương - Nghĩa trang Liệt sỹ Quốc gia Trường Sơn, Giếng cổ Gio
An. Trên địa bàn huyện thường diễn ra các lễ hội truyền thống như đua
thuyền, hội cù, hội đu… và các lễ hội mang tầm quốc gia như: Lễ Hội Thống
nhất non sông, Lễ hội Trường Sơn huyền thoại…
Bên
cạnh những danh lam thắng cảnh, nơi đây còn lưu giữ các loại hình văn học dân
gian, chủ yếu là ca dao, hò vè; các di tích lịch sử - văn hóa gắn liền với lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, đặc biệt là hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đã được xếp hạng di tích quốc gia[6].
Con
người Gio Linh cần cù, thông minh, chịu thương, chịu khó và giàu lòng yêu quê
hương đất nước, nhiều người đỗ đạt, học giỏi, tài cao[7], làm rạng danh quê hương Gio Linh.
Gio
Linh có hai dân tộc: dân tộc Kinh và dân tộc Bru-Vân Kiều,[8] trong đó, dân tộc Bru-Vân Kiều sinh
sống chủ yếu ở xã Linh Trường, đặc biệt, với tình cảm sâu nặng và lòng tôn
kính đối với Bác Hồ kính yêu, từ ngày 16/6/1957, đồng bào dân tộc Vân Kiều được
mang họ Hồ của Bác đến nay đã hơn 60 năm. Vì vậy, ngoài những lễ hội
truyền thống, hàng năm người Vân Kiều còn có thêm lễ hội kỷ niệm ngày được mang
họ Hồ của Bác. Các dân tộc ở Gio Linh cần cù lao động, có tinh thần yêu
nước nồng nàn, tinh thần tự tôn dân tộc, đoàn kết anh dũng chống giặc ngoại xâm
và xây dựng quê hương ngày càng phát triển.
Tôn giáo, tín ngưỡng của người dân Gio Linh khá phong phú, gắn bó với đời sống
tinh thần của nhân dân như Phật giáo, Nho giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành[9], nhưng nổi bật là tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Dù theo tôn giáo nào, người dân Gio Linh cũng luôn đoàn kết trong lao
động cũng như trong chiến đấu giữ nước, giữ làng, xây dựng và phát triển quê
hương.
3. Truyền thống yêu nước
Người
dân Gio Linh luôn tự hào với mỗi ngọn núi, khúc sông, mỗi tên đất, tên làng đã
thấm đẫm máu, mồ hôi và nước mắt của các thế hệ trong quá trình đấu tranh giành
giật với thiên nhiên, chống phong kiến và ngoại xâm bảo vệ quê hương, giải
phóng đất nước. Người dân Gio Linh luôn có mặt trong mỗi bước thăng trầm của
lịch sử, chứng kiến sự hưng vong của triều Trần, sự phục hưng của nhà Hồ thất
bại, rầm rập theo nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh, cùng đoàn quân Tây Sơn
đánh đuổi quân Thanh, hay hưởng ứng “Chiếu Cần Vương” chống thực dân Pháp xâm
lược... Đặc biệt là sự ra đời của Chi bộ Chợ Cầu ở Gio Linh (2/1932) đã kịp
thời lãnh đạo quân và dân Gio Linh vượt qua mọi gian lao, thử thách làm nên
thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và 2 cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn quê hương Gio Linh vào ngày 02/4/1972.
Với
những chiến công oanh liệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và Nhân
dân Gio Linh được Đảng và Nhà nước tặng Huân chương Thành đồng Tổ quốc hạng II
và tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (Ngày
20/12/1994); Khu ủy Trị - Thiên - Huế tặng danh hiệu “Tấn công nổi dậy, anh
dũng kiên cường”. Toàn huyện có 12 đơn vị (trong đó có 8/9 xã) của huyện được
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 14 cá nhân được phong
tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND; 408 bà mẹ được tặng danh hiệu Bà mẹ
Việt Nam anh hùng; 7.911 Huân, Huy chương các loại (trong đó có 14 Huân chương
Độc lập) cùng hàng ngàn danh hiệu dũng sỹ các loại cho các cá nhân và tập thể.
Sau 30 năm lập lại, từ
một huyện khó khăn, điểm xuất phát thấp, đến nay Gio Linh đã thực sự đổi mới,
phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Ghi nhận và biểu dương những
thành tựu đã đạt được, ngày 26/3/2020, Chủ tịch nước đã tặng thưởng “Huân
chương Lao động hạng Nhất” cho cán bộ và Nhân dân huyện Gio Linh. Những thành
quả trên là sự nỗ lực của các thế hệ cán bộ, đảng viên và Nhân dân Gio Linh,
minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ huyện qua các nhiệm
kỳ thông qua việc ban hành các chủ trương sát đúng, hợp lòng dân, khơi dậy được
tiềm lực phát triển kinh tế, khát vọng cống hiến, ý chí vươn lên của mọi tầng
lớp Nhân dân, tạo nền tảng và động lực cho Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Gio
Linh tiếp tục vững bước tiến lên thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng quê
hương Gio Linh ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Bài 2
CHI BỘ CHỢ CẦU RA ĐỜI
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN GIO LINH
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH
QUYỀN (1932 – 1945)
I. CHI BỘ CHỢ CẦU RA
ĐỜI, BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO CÁCH MẠNG GIO LINH (1932-1935)
1. Bối cảnh lịch sử
Qua quá trìnhhoạt động
tích cực của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá sâu
rộng trong giai cấp công nhân và các tầng lớp Nhân dân Việt Nam, làm chophong
trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Đến năm 1929, 3 tổ
chức cộng sản ra đời, hoạt động riêng lẻ, tranh giành ảnh hưởng quần chúng lẫn
nhau, phong trào cách mạng có nguy cơ bị chia rẽ. Trước tình hình đó, từ ngày
06/01 đến ngày 07/02/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), dưới sự chủ trì của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc, hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Ở Quảng Trị, tháng
4/1930, Tỉnh uỷ lâm thời được thành lập nhưng đến tháng 10/1930 bị vỡ. Tháng
11/1930, Tỉnh ủy chính thức được thành lập tại Tân Tường (Cam Lộ) và quyết định
tích cực xây dựng, củng cố phát triển Đảng, đẩy mạnh phát triển các hội quần
chúng cách mạng. Hội nghị bầu Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí, đồng chí Trần Ngọc Hoành
- Tỉnh uỷ viên được phân công phụ trách công tác xây dựng cơ sở Đảng ở Vĩnh
Linh và Gio Linh.
Để mở rộng địa bàn hoạt
động, tránh sự truy quét của địch, phát huy ảnh hưởng của Đảng trong hoàn cảnh
mới đầy thử thách, đồng chí Đoàn Bá Thừa - Bí thư Tỉnh uỷ đang hoạt động ở địa bàn
Vĩnh Linh đã chỉ thị cho Phủ uỷ Vĩnh Linh xây dựng cơ sở Đảng ở Gio Linh1.
2.
Chi bộ chợ Cầu ra đời, bước ngoặt lịch sử của phong trào cách mạng Gio Linh
Chợ Cầu thuộc thôn Hà
Thượng, tổng An Nha (nay là thị trấn Gio Linh). Gần chợ có huyện đường, sở canh
nông, có xe lửa và Quốc lộ 1A chạy ngang qua, nên chợ Cầu có vị trí quan
trọng bậc nhất về kinh tế, chính trị, quân sự trong huyện.
Ngày 01/02/1932,
tại đình làng Hà Thượng, đồng chí Phạm Chí tổ chức thành lập chi bộ Đảng đầu
tiên ở Gio Linh, lấy tên là chi bộ Chợ Cầu gồm 3 đồng chí: Võ Tín, Lâm Tính, Cổ
Tuế. Đồng chí Võ Tín, Bí thư phụ trách chung, đồng chí Cổ Tuế phụ trách vùng
tam thượng tổng, đồng chí Lâm Tính phụ trách vùng đồng bằng. Việc thành lập chi
bộ chợ Cầu đánh dấu bước ngoặt quan trọng,
tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào đấu tranh cách mạng ở huyện Gio Linh.
Sau khi được thành lập,
các đồng chí trong chi bộ chợ Cầu đã tích cực đi sâu vào các tầng lớp Nhân dân
để vận động, tuyên truyền đường lối của Đảng, vạch trần tội ác của bọn thực dân
phong kiến, kêu gọi Nhân dân ủng hộ Đảng. Từ đây, phong trào cách mạng huyện
Gio Linh đã được Đảng soi đường, chỉ lối, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh.
Tháng 5/1933, đồng chí
Trần Ngọc Hoành trực tiếp phụ trách chi bộ chợ Cầu. Phong trào cách mạng ở Gio
Linh tiếp tục phát triển, chuẩn bị điều kiện thành lập Huyện ủy Gio Linh và một
số đoàn thể quần chúng cách mạng. Tháng 7/1935, giữa lúc phong trào cách mạng
đang được nhen nhóm thì kẻ thù đã lợi dụng vụ ám sát Cửu Kiệm để đàn áp, khủng
bố phong trào, nhiều đảng viên và cảm tình Đảng bị bắt và tra tấn dã man, trong
đó có đồng chí Cổ Tuế, Lâm Tính, Võ Tính, kết án hơn 20 đồng chí. Phong trào
cách mạng trong huyện gặp nhiều khó khăn.
Có thể nói rằng, tổ chức
Đảng ở Gio Linh ra đời muộn so với nhiều nơi trong tỉnh nhưng nhờ tinh thần
cách mạng cao của các đảng viên và sự quan tâm của Tỉnh ủy, Phủ ủy Vĩnh Linh
nên phong trào có bước phát triển mới. Dù có giai đoạn bị đàn áp, khủng bố dã
man nhưng với truyền thống yêu nước, lòng căm thù giặc, nay được Chi bộ Đảng
lãnh đạo, cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
II. CHI BỘ ĐẢNG CHỢ CẦU
LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO ĐẤU TRANH ĐÒI DÂN SINH, DÂN CHỦ (1936-1939)
Từ
năm 1936, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến, chủ nghĩa phát
xít ráo riết chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh, Chính phủ Mặt trận Nhân
dân Pháp lên cầm quyền thi hành nhiều chính sách tiến bộ ở trong nước và các thuộc
địa. Chủ trương của Đảng có nhiều thay đổi cho phù hợp với tình hình. Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7/1936 đã xác định nhiệm vụ giai đoạn này
là đấu tranh chống phát xít, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự
do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hòa bình một cách công khai, hợp pháp.
Đầu
năm 1937, Chính phủ Pháp cử Gô-đa sang điều tra tình hình Đông Dương, Trung
ương Đảng vận động Nhân dân đón rước và gửi các bản dân nguyện, đòi tự do, dân
sinh, dân chủ. Giữa tháng 2/1937, được tin Gô-đa từ Hà Nội trên đường vào Huế
sẽ nghỉ tại Cửa Tùng, Ban vận động ở huyện được thành lập, các đồng chí cốt cán
trong huyện đã về từng địa phương, tuyên truyền Nhân dân họp bàn, tổ chức đón
rước và đưa các bản dân nguyện[10]. Phong trào đã tạo được tiếng vang trong
cả nước[11], đây được xem là cuộc biểu dương lực
lượng lớn nhất từ khi chi bộ Đảng ra đời, có tác dụng quan trọng đối với phong
trào cách mạng huyện nhà. Qua phong trào, Nhân dân được tuyên truyền, giáo dục,
giác ngộ về đường lối, về quyền lợi dân tộc, giai cấp, ngày càng tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng.
Đầu tháng 3/1937, đồng
chí Lê Duẩn đã đến Gio Linh kiểm tra tình hình và đánh giá cao kết quả phong
trào đón Gô-đa, đồng thời phê phán, uốn nắn bệnh chủ quan, mất cảnh giác của
một số cán bộ lãnh đạo phong trào. Qua đó, đồng chí chỉ thị cho Gio Linh gấp
rút phải thành lập Huyện ủy để phát triển thêm tổ chức Đảng và các tổ chức quần
chúng.
Ngày 28/6/1937, đồng chí
Lê Duẩn chủ trì Hội nghị đại biểu Đảng bộ Quảng Trị tại thôn Phú Long (Hải
Lăng), trong đó quyết định phát động phong trào đòi hoãn thuế, chống phù thu
lạm bổ, củng cố và thành lập các Huyện ủy, phát triển chi bộ, đảng viên. Sau
Hội nghị, đồng chí Hoàng Hữu Chấp và Trương Văn Hoàn được tỉnh phân công về Gio
Linh triệu tập cuộc họp tại địa điểm đá ông Voi (Cồn Tiên) và thành lập Huyện
uỷ lâm thời, đồng chí Trương Văn Hoàn làm Bí thư.
Tổ chức cơ sở Đảng được
củng cố, Huyện ủy lâm thời ra đời, lực lượng đảng viên tăng cường, các tổ chức
quần chúng phát triển rộng khắp, những nhân tố đó đã làm cho phong trào đấu
tranh trong thời kỳ này diễn ra rầm rộ, rộng khắp, đánh dấu bước phát triển mới
quan trọng đối với lịch sử Đảng bộ Gio Linh.
Thực hiện chủ trương
chống thuế của Tỉnh uỷ, phong trào chống thuế ở Gio Linh phát triển mạnh, với
nhiều hình thức như mít tinh, biểu tình, rải truyền đơn, không nộp thuế, nộp
thuế 2 kỳ, lấy chữ ký đòi lý trưởng đóng dấu chứng thực hoàn cảnh mất mùa...
Phong trào là một cuộc vận động có chiều sâu, đáp ứng được lợi ích thiết thực
của Nhân dân, nhất là nông dân nên thu hút đông đảo Nhân dân tham gia, uy tín
của Đảng được nâng lên, tổ chức Đảng được củng cố vững chắc.
Cùng với phong trào
chống thuế, Huyện ủy chủ trương vận động quần chúng bầu cử đại biểu của mình
vào Viện dân biểu Trung Kỳ, sau đó gửi các bản dân nguyện, đòi giảm thuế cho
Viện dân biểu. Trước áp lực của Nhân dân và báo chí, ngày 16/9/1938, Viện dân
biểu phải thông qua nghị quyết bác bỏ tăng thuế của chính phủ thực dân. Phong
trào đã tạo ra bầu không khí chính trị sôi nổi, thu hút đông đảo Nhân dân, hòa
nhập với phong trào chung trong tỉnh và toàn xứ.
Phong trào thời kỳ 1936
- 1939 trong cả nước, cũng như ở Quảng Trị và Gio Linh có bước phát triển mới,
đánh dấu sự trưởng thành về chính trị, sự lớn mạnh về tổ chức Đảng và tổ chức
quần chúng. Đó là cuộc diễn tập quan trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng trong việc
giáo dục, giác ngộ và tập hợp quần chúng đấu tranh, tạo thành một lực lượng
chính trị hùng hậu, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính
quyền về tay Nhân dân.
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1939 – 1945)
Tháng 9/1939, Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đông Dương, thực dân Pháp và tay sai tăng
cường bóc lột Nhân dân. Trước sự chuyển biến của tình hình, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã họp hội nghị lần thứ 6 (11/1939) quyết định chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, từ đấu tranh chống phát xít, chống phản động thuộc địa, đòi dân
sinh, dân chủ công khai sang chống đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc
với phương pháp bí mật.
Tháng 12/1939, Tỉnh ủy
Quảng Trị tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 6, đồng chí Trương
Văn Hoàn được bổ sung vào Tỉnh ủy, trực tiếp phụ trách tài chính và 2 huyện Gio
Linh, Cam Lộ.
Quán triệt chủ trương
của Tỉnh ủy, Huyện ủy Gio Linh chú trọng xây dựng vùng rừng núi phía tây huyện
làm địa bàn đứng chân cho cán bộ hoạt động; tổ chức Đảng và các tổ chức quần
chúng chuyển sang hoạt động bí mật. Đồng chí Bùi Trung Lập được cử làm Bí thư
Huyện ủy thay cho đồng chí Trương Văn Hoàn. Tháng 3/1940, Huyện ủy Gio Linh họp
và nghe đồng chí Trương Văn Hoàn phổ biến Nghị quyết Trung ương 6 và Nghị quyết
tháng 12/1939 của Tỉnh ủy, quyết định đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền,
xây dựng các tổ chức quần chúng ở vùng đồng bằng.
Tháng 9/1940, phát xít
Nhật nhảy vào xâm lược Đông Dương, Nhân dân chịu cảnh “một cổ hai tròng”, thực
hiện chủ trương của Trung ương, của Tỉnh ủy, phong trào chống phát xít Nhật ở
Gio Linh bùng nổ. Để đối phó, địch tổ chức đàn áp, khủng bố, nhiều tổ chức Đảng
bị vỡ, nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt. Ở Gio Linh, nhờ có cơ sở mật và được
Nhân dân che chở, các đồng chí trong Huyện ủy vẫn được bảo vệ và tiếp tục lãnh
đạo phong trào đấu tranh, nhiều đảng viên vẫn luôn thể hiện tinh thần bất
khuất, dũng cảm[12] khiến cho kẻ địch phải khiếp sợ.
Tháng 5/1941, sau khi về
nước, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 8, quyết định đánh đổ đế quốc Pháp – phát xít Nhật và tay sai, làm
cho Đông Dương hoàn toàn độc lập, giương cao hơn nữa ngọn cờ độc lập dân tộc,
thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh.
Tháng 8/1941, Tỉnh ủy
triệu tập Hội nghị mở rộng tại An Nha quán triệt Nghị quyết Trung ương 8, thành
lập Ủy ban Việt Minh các phủ, cử đồng chí Trương Văn Hoàn làm Bí thư Tỉnh ủy và
phân công đồng chí Cổ Em phụ trách Gio Linh. Huyện ủy Gio Linh được củng cố
lại, đồng chí Phạm Chít làm Bí thư (thay đồng chí Bùi Trung Lập), Mặt trận Việt
Minh huyện, các đội tự vệ đỏ được thành lập. Phong trào đấu tranh của Nhân dân
diễn ra sôi nổi, bọn địch tăng cường khám nhà, bắt người, tra tấn dã man, các
tổ chức Đảng bị vỡ gần hết. Trước tình hình đó, đầu năm 1943, đồng chí Bùi
Trung Lập trở về móc nối với một số cơ sở, phong trào đấu tranh ở Gio Linh dần
được phục hồi.
Đầu
năm 1945, quân Nhật ở châu Á - Thái Bình Dương liên tục thất bại. Trước nguy cơ
bị Pháp phản công, Nhật đảo chính bất ngờ vào đêm 09/3/1945, Pháp đầu hàng.
Tháng 4/1945, Hội nghị cán bộ toàn tỉnh họp, quyết định phát động một cao trào
kháng Nhật mới, chuẩn bị các điều kiện để khởi nghĩa giành chính quyền.
Hội nghị Huyện uỷ lâm
thời họp bàn quyết tâm chuẩn bị khởi nghĩa và cử đồng chí Phạm Chít làm Bí thư
Huyện uỷ lâm thời. Dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ lâm thời và Mặt trận Việt
Minh, phong trào kháng Nhật ở địa phương có phương hướng hoạt động đúng đắn, phát
triển rầm rộ khắp nơi. Uỷ ban Việt Minh huyện, tổng, xã ra đời công khai lãnh
đạo và quản lý mọi công việc của thôn xóm.
Đầu tháng 7/1945, tại
nhà ông Trần Lự (Nhĩ Trung), Uỷ ban dân tộc giải phóng Gio Linh được thành lập.
Hội nghị cử đồng chí Nguyễn Đăng Khoa làm Chủ tịch Uỷ ban dân tộc giải phóng
huyện, phân công các uỷ viên phụ trách công tác tuyên truyền, quân sự, tiếp tế
và phân công người về phụ trách các xã mà cơ sở Việt Minh và các đoàn thể còn
yếu. Đến cuối tháng 7, các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ Gio Linh đã ở tư
thế sẵn sàng, công tác chuẩn bị mọi mặt hoàn tất.
Quán triệt tinh thần
Nghị quyết Hội nghị toàn tỉnh (18/8/1945), đêm 20/8/1945, đồng chí Bùi Trung
Lập được tỉnh phân công chỉ đạo khởi nghĩa ở Gio Linh đã triệu tập cuộc họp cán
bộ huyện bất thường để truyền đạt kế hoạch khởi nghĩa. Sáng ngày 22/8/1945,
hàng ngàn quần chúng và tự vệ chiến đấu trang bị đầy đủ vũ khí thô sơ tự tạo,
cờ đỏ rợp trời, rầm rập theo các hướng từ vùng biển qua đò Bến Ngự kéo lên, từ
Mai Xá, Lâm Xuân, Vinh Quang Thượng, Vinh Quang Hạ kéo qua, hợp với lực lượng
Hà Thượng, Hà Trung, Lan Đình, Lạc Tân, Lễ Môn,… kéo vào huyện lỵ, tuần hành
thị uy. Mặt trận Việt Minh đã làm chủ khắp nông thôn, kêu gọi tri huyện Ngô Gia
Tự và nha lại đầu hàng, giao chính quyền.
4 giờ sáng ngày
23/8/1945, các cánh quân của ta từ các hướng hiệp đồng phối hợp kéo về huyện
lỵ. Chỉ sau 3 tiếng đồng hồ, các điểm trọng yếu trong huyện đều do lực lượng
khởi nghĩa kiểm soát, làm chủ tình hình. Tên tri huyện cùng bọn nha lại binh
lính bị tạm giữ, đợi lệnh cấp trên1.
Đúng 8 giờ ngày
23/8/1945, một cuộc mít tinh lớn tại sân huyện đường chào mừng thắng lợi cuộc
khởi nghĩa và Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện được Mặt trận Việt Minh
huyện giới thiệu và Mặt trận Việt Minh tỉnh công nhận2, tuyên bố xoá bỏ chính quyền cũ, động
viên Nhân dân đoàn kết bảo vệ thành quả cách mạng, đẩy mạnh sản xuất, cảnh giác
với mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù, tham gia xây dựng chính quyền cách mạng.
Ngày 28/8/1945, dọc
đường Quốc lộ từ Dốc Miếu đến cầu Đập Huyện, quần chúng Gio Linh đứng chật
đường, đón phái đoàn Chính phủ lâm thời Trung ương vào tiếp nhận sự thoái vị
của vua Bảo Đại, đi ngang qua địa phương.
Ngày 2/9/1945, cùng với
Nhân dân cả nước, cả tỉnh, Nhân dân Gio Linh phấn khởi chào mừng lễ tuyên ngôn
độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên
ở Đông Nam Á.
Thắng lợi của cách mạng
tháng Tám ở Gio Linh là kết quả của việc thực hiện một cách chủ động các nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương, Tỉnh ủy vào điều kiện thực tế của địa phương.
Đảng bộ đã vận dụng, tập hợp được đông đảo quần chúng tạo nên sức mạnh vô địch
làm nên thắng lợi, tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa quyết định trong tiến trình vận
động của lịch sử.
Đảng bộ Gio Linh ra đời
năm 1932, tuy muộn so với các địa phương trong tỉnh, song nhanh chóng lớn mạnh.
Có những lúc Đảng bộ bị địch khủng bố nặng nề nhưng suốt chặng đường từ khi ra
đời đến khi cách mạng tháng Tám thành công năm 1945, các chiến sĩ cộng sản vẫn
kiên trì hoạt động, chi bộ này bị vỡ, chi bộ khác ra đời, đảng viên này bị bắt,
các đảng viên khác hoạt động mạnh hơn, tìm mọi cách giữ liên lạc với cấp trên,
với phong trào quần chúng không bị gián đoạn, nhanh chóng chuyển hoạt động của
Đảng bộ phù hợp với từng thời kỳ, nhằm bảo toàn lực lượng, duy trì phong trào
dưới mọi hình thức. Nhờ vậy, Đảng bộ ngày càng lớn mạnh đủ sức lãnh đạo nhân
dân làm nên Cách mạng tháng Tám thắng lợi vẻ vang. Với thành công của cách mạng
tháng Tám ở Gio Linh đã góp phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng trong tỉnh và
cả nước, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.
Bài 3
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP (1945
-1954)
Với
thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80
năm của thực dân và hàng ngàn năm của chế độ phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới –
kỷ nguyên độc lập, tự do. Tuy nhiên, chưa bao lâu thì bọn đế quốc quay lại xâm
lược hòng xóa bỏ thành quả cách mạng mà Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã giành được. Trước tình hình đó, Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh đã đoàn kết,
quyết tâm củng cố, bảo vệ chính quyền, ổn định đời sống Nhân dân, đẩy mạnh cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp với quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
I.
CỦNG CỐ VÀ BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
Gio Linh là một huyện
nghèo, thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt, lại bị thực dân phong kiến áp bức,
bóc lột nặng nề, nên đời sống của Nhân dân Gio Linh vốn đã cùng cực lại càng
cùng cực thêm, những tệ nạn xã hội, tập tục lạc hậu còn diễn ra trầm trọng.
Trong lúc đó, nạn thù trong giặc ngoài đang là một thách thức lớn đối với chính
quyền cách mạng non trẻ. Nhiệm vụ cấp bách nhất lúc này là bảo vệ và giữ vững
nền độc lập mà nhân dân ta vừa mới giành được.
Thực hiện chủ trương của
Tỉnh uỷ, Huyện ủy, Ủy ban và Mặt trận Việt Minh huyện được củng cố và bổ sung
thêm cán bộ[13], kịp thời chuyển Uỷ ban nhân dân cách
mạng lâm thời huyện thành Uỷ ban nhân dân cách mạng, xoá bỏ đơn vị hành chính
cấp tổng, thành lập đơn vị hành chính cấp xã, lúc này, toàn huyện được chia làm
8 xã[14]. Từ tháng 10/1945, Uỷ ban nhân dân cách
mạng từ tỉnh đến xã được đổi tên thành Uỷ ban hành chính.
Đi đôi với việc củng cố
chính quyền, các cấp ủy Đảng, chính quyền cách mạng, Mặt trận và các hội quần
chúng đã tích cực chống “giặc đói”, kêu gọi “nhường cơm sẻ áo”, lập “hũ gạo
tiết kiệm”, thực hiện phong trào “tăng gia sản xuất”, miễn giảm các loại thuế,
chia lại ruộng đất công… Chỉ sau một thời gian ngắn các ngành sản xuất của
huyện được khôi phục, diện tích, sản lượng lương thực tăng lên, nạn đói được
đẩy lùi, đời sống của người dân dần ổn định.
Trên lĩnh vực văn hoá,
thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch và Chính phủ về “diệt giặc dốt”, các lớp
bình dân học vụ, phong trào học chữ quốc ngữ diễn ra sôi nổi, sau một thời gian
nhiều người đã biết đọc, biết viết. Bên cạnh đó, phong trào chống những tập tục
lạc hậu, mê tín dị đoan, bài trừ dịch bệnh được đẩy mạnh.
Thi hành sắc lệnh tổng
tuyển cử của Chính phủ lâm thời, ngày 06/1/1946, cùng với cả nước, Huyện uỷ, Uỷ
ban hành chính huyện tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện
tốt cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (khoá I).
Ngày 17/2/1946, Nhân dân toàn huyện và tỉnh Quảng Trị bỏ phiếu bầu Hội đồng
Nhân dân tỉnh và xã, kết quả, huyện Gio Linh có 3 đồng chí đắc cử vào Hội đồng
Nhân dân tỉnh gồm: Trương Quang Phiên, Nguyễn Đàm, Trần Đình Thảo. Sau bầu cử,
Ủy ban hành chính từ xã đến tỉnh được kiện toàn. Đồng chí Nguyễn Đàm thay đồng
chí Nguyễn Đăng Khoa làm chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện. Các hội cứu quốc
phát triển mạnh mẽ, thu hút rộng rãi các tầng lớp Nhân dân, động viên được mọi
người phát huy tinh thần làm chủ đất nước, hăng hái tham gia vào việc xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thắng lợi bước đầu trên
mặt trận diệt “giặc đói”, “giặc dốt”, củng cố chính quyền, ổn định đời sống
Nhân dân, giữ vững trật tự xã hội có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt, lòng tin của
Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ mới được tăng cường, thể hiện tinh
thần và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ
mới, cổ vũ, động viên Đảng bộ và Nhân dân toàn huyện vững bước trong giai đoạn
cách mạng mới.
II.
TÍCH CỰC ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN, GÓP PHẦN CÙNG CẢ NƯỚC TỔNG PHẢN CÔNG, KẾT
THÚC VẺ VANG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)
1. Củng cố lực lượng góp
phần đánh bại âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh” của Pháp (1945-1949)
Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945,
thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, cùng với Nhân dân cả nước, Huyện ủy đã
tập trung lãnh đạo Nhân dân Gio Linh chi viện cho Nam Bộ kháng chiến; chú trọng
phong trào luyện tập quân sự, tòng quân nhập ngũ; tăng cường công tác tuyên
truyền, nâng cao tinh thần cảnh giác trong Nhân dân, vạch trần âm mưu, thủ đoạn
của bọn ngoại xâm, nội phản.
Sau khi ký Hiệp ước Hoa
– Pháp (28/2/1946), Pháp đem quân ra miền Bắc thay thế quân Trung Hoa dân quốc,
ngang nhiên đánh chiếm nhiều nơi ở Hà Nội, Hải Phòng. Trước hành động đó, ngày
19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Đáp lời
kêu gọi thiêng liêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, Nhân dân Gio Linh
đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Để chỉ đạo nhiệm vụ trong tình hình
mới, Ủy ban hành chính huyện chuyển thành Ủy ban kháng chiến hành chính huyện.
Ngày 27/3/1947, Pháp tấn
công ra Gio Linh nhưng bị lực lượng vũ trang huyện phối hợp với một đơn vị của
Trung đoàn 95 chặn đánh, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tuy nhiên, do lực lượng
quá chênh lệch nên ta tạm thời rút lui. Ngày 29/3/1947, quân Pháp chiếm được
Gio Linh. Địch rất coi trọng tiểu khu Gio Linh, coi đây là nơi làm bàn đạp tấn
công ra Bắc. Vì thế, Pháp đã lập một hệ thống đồn bốt dày đặc, tổ chức càn
quét, đốt phá, cướp bóc, bắn giết gây cho ta nhiều tổn thất, nhiều cán bộ, đảng
viên cốt cán hy sinh[15]. Điều đó càng nung nấu thêm lòng căm thù
giặc, nhiều trận đánh diễn ra gây tiếng vang trong quần chúng[16].
Cay cú trước những thất
bại trên, ngày 15/10/1947, Pháp đã gây ra vụ thảm sát ở làng Tân Minh[17]. Đây là vụ thảm sát dã man nhất của Pháp
đối với Gio Linh trong năm đầu kháng chiến. Tội ác của chúng càng làm tăng lòng
căm thù của quân và dân Gio Linh, nêu cao quyết tâm bám đất, bám dân, tìm cách
tiêu diệt địch.
Với thắng lợi của chiến
dịch Việt Bắc năm 1947 đã làm phá sản kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” của
Pháp, buộc chúng phải chuyển sang chiến lược “Dùng người Việt đánh người Việt,
lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Ở Gio Linh, Pháp tìm mọi cách chia rẽ khối
đoàn kết lương giáo, lập ra các đảng phái phản động, lập hội tề, phá hoại mùa
màng, khủng bố không cho Nhân dân sản xuất…
Thực hiện chủ trương của
Khu ủy và Tỉnh uỷ, Huyện ủy đã kịp thời phát động phong trào đấu tranh phá tề,
trừ gian, quấy rối các đồn bốt, phục kích đánh địch quyết liệt. Tháng 3/1948,
địch tổ chức càn vào thôn Mai Xá, lực lượng du kích tự vệ chiến đấu chống trả
quyết liệt với kẻ thù để giải vây cho cán bộ đang họp tại nhà bà Tạ Thị Tam xóm
Động, thôn Mai Xá[18]. Tháng 6/1948, một đại đội Pháp đi càn,
lực lượng du kích và bộ đội Trung đoàn 95 phục kích diệt 30 tên, thu 15 súng.
Nhân ngày Quốc khánh của Pháp 14/7/1948, ta đã dùng mỹ nhân kế, bí mật bắt gọn
toàn bộ đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng và triệt hạ
đồn. Do thua đau trận này, ngày hôm sau Pháp đã bắt một số du kích, cán bộ của
ta đang bị chúng giam giữ ở Chợ Cầu ra bắn và ném xuống cầu Đập Huyện.
Hành động dã man của
địch càng tăng thêm lòng căm thù giặc của Nhân dân. Lực lượng du kích các xã đã
phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương liên tiếp quấy rối, bao vây đồn
bốt, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Trước sự lớn mạnh của phong trào ở Gio
Linh, địch cho tăng cường thêm lực lượng ở các đồn bốt và đẩy mạnh các hoạt
động chống phá. Để đối phó, ta chủ trương
xây dựng và phát triển lực lượng du kích, chống trả quyết liệt các trận càn của
chúng[19].
Để lãnh đạo phong trào
trong tình hình mới, cuối năm 1948 Huyện ủy triệu tập Đại hội lần thứ nhất của
Đảng bộ huyện tại nhà ông Hội Chuồn ở xóm Bến Than[20] ra Nghị quyết đẩy mạnh chiến tranh
du kích, trừ gian phá tề, vận động binh lính địch, coi trọng sản xuất, tích cực
chống càn và bầu Ban chấp hành mới, do đồng chí Trần Miến làm Bí thư, đồng chí
Phan Song làm Phó bí thư.
Sau Đại hội, phong trào
có nhiều chuyển biến, cán bộ bám dân xây dựng cơ sở, vận động Nhân dân tham gia
kháng chiến, lực lượng vũ trang tích cực phá tề, trừ gian và được Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh Quảng Trị công nhận là “Huyện kháng chiến kiểu mẫu”[21]. Phong trào phát triển mạnh làm nền tảng
và cơ sở để sẵn sàng bước sang một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến, giai
đoạn phản công.
2. Cùng với cả nước, cả
tỉnh, quân dân Gio Linh tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang phản công, kết thúc
cuộc kháng chiến (1949-1954)
Quán triệt Nghị quyết
Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 (đầu năm 1949), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh (tháng 3/1949) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ I về vấn đề
“Tích cực chuẩn bị tổng phản công”, Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính
huyện mở một đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ, đảng viên, đồng thời phát
động phong trào thi đua kháng chiến.
Cuối năm 1949, sau một
thời gian chuẩn bị, được sự đồng ý của Thường vụ Tỉnh uỷ, Đại hội lần thứ hai
của Đảng bộ huyện Gio Linh được tổ chức tại thôn Tân Gia, xã Gio An. Đại hội đã
tập trung đánh giá tình hình của huyện và đề ra một số chủ trương, biện pháp
chuyển cách mạng sang tổng phản công. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới, đồng chí
Hoàng Ca được bầu làm Bí thư Huyện ủy.
Quán triệt Nghị quyết
của Trung ương (tháng 1/1950) và của Tỉnh ủy (tháng 4/1950), Huyện ủy Gio Linh
tiến hành họp và đề ra nhiệm vụ của năm 1950. Sau Hội nghị, Huyện ủy chủ trương
phát động phong trào Nhân dân tham gia sản xuất, phá hoại giao thông, quấy rối
đồn bốt địch; cán bộ bám sát Nhân dân vùng địch chiếm, vận động và tổ chức dân
đóng góp của cải cho kháng chiến; bộ đội địa phương và dân quân du kích phối
hợp bộ đội chủ lực đánh địch liên tục nhiều nơi. Nổi bật trên đường 74, 75 ta
đào hầm đặt chướng ngại vật, chặn các đoàn xe tiếp tế từ Đông Hà, Quảng Trị lên
Nam Đông, gây nhiều thiệt hại cho địch.
Tháng 2/1951, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II được triệu tập, quyết định đưa Đảng ra hoạt động
công khai, đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam nhằm tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng trong tình hình mới. Quán triệt Nghị quyết Đại hội II của Đảng và
của Tỉnh ủy, tháng 6/ 1951, Đại hội lần thứ 3 của Đảng bộ huyện đã tổ chức tại
thôn Gia Bình, xã Linh An (nay là Gio An). Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá phong
trào, biểu dương thành tích của nhân dân, quyết định “phát động toàn Đảng và
toàn dân trong huyện đoàn kết và kiên quyết, phản kích địch, thu hẹp địa bàn
kiểm soát của địch, thi đua giết giặc lập công” và bầu đồng chí Nguyễn Đàm làm
Bí thư, đồng chí Lê Mậu Cẩm làm Phó bí thư Huyện uỷ.
Được Nghị quyết Đại hội
Đảng bộ huyện soi đường, quân và dân Gio Linh phối hợp với Trung đoàn 95 đã
đánh thắng nhiều trận, làm xoay chuyển tình hình[22]. Thành tích nổi bật của quân dân Gio
Linh là phối hợp với bộ đội chủ lực đánh trận Nam Đông - Đường 74 năm 1952[23]. Với thắng lợi trên, huyện đội Gio Linh
và Trung đoàn 95 được Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư khen ngợi. Chiến thắng
đã kéo theo sự sụp đổ hàng loạt hệ thống kìm kẹp của địch ở Gio Linh, tạo điều
kiện đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích của huyện lên một bước mới.
Cùng với nhân dân cả
nước thực hiện cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953-1954, bộ đội địa phương
và dân quân du kích Gio Linh liên tục tập kích, vây ép các vị trí chiếm đóng
của địch, tấn công vào các hội tề, tổ chức cho Nhân dân vừa tăng gia sản xuất
vừa ủng hộ cho chiến trường, đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng sau lưng địch
nhằm phối hợp với các cuộc tiến công ở các chiến trường chính, nhất là hạn chế
địch tập trung lực lượng cho chiến trường Điện Biên Phủ.
Thắng lợi của cuộc tiến
công chiến lược đông xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ
cùng với cuộc đấu tranh ngoại giao khôn khéo, kiên quyết của ta trên bàn đàm
phán, buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21/7/1954, công nhận
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, rút quân về nước, lập lại
hoà bình ở Đông Dương.
Ngay khi cách mạng tháng
Tám năm 1945 thắng lợi, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Quảng
Trị, Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh đã sớm nhận thức được vai trò, vị trí của
mình để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đoàn kết một lòng đứng lên xây dựng
và củng cố chính quyền, xây dựng thực lực cách mạng, cải thiện đời sống, chuẩn
bị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong suốt 9 năm kháng
chiến, cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ trang huyện Gio Linh luôn bám sát địa
bàn, dựa vào dân, xây dựng căn cứ địa trong lòng dân, nhờ đó, Đảng bộ không
ngừng trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ, đảng viên ngày
càng được tôi luyện, trưởng thành, xứng đáng là hạt nhân quyết định mọi thắng
lợi của phong trào cách mạng huyện nhà. Cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc vẻ
vang, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân Gio Linh cùng với cả nước, cả tỉnh bước
vào giai đoạn cách mạng mới với tinh thần quyết chiến, quyết thắng của một dân tộc
anh hùng.
Bài 4
ĐẢNG BỘ GIO LINH LÃNH
ĐẠO NHÂN DÂN TIẾN HÀNH CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC, GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG
(1954 - 1975)
I. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH
CHÍNH TRỊ ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ VÀ SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO ĐẤU TRANH
(1954-1959)
Với Hiệp định Giơ-ne-vơ
năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền Nam-Bắc, lấy sông Bến
Hải (vĩ tuyến 17)[24] làm ranh giới quân sự tạm thời.
Miền Bắc được giải phóng bước vào thời kỳ xây dựng CNXH, miền Nam trở thành
thuộc địa kiểu mới của Mỹ, nước ta đồng thời làm hai nhiệm vụ chiến lược: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Gio Linh[25] nằm ở bờ nam sông Bến Hải trở thành
đầu cầu miền Nam, là “khu đệm” của 2 miền Nam -
Bắc trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác
liệt thì Gio Linh trở thành một chiến trường vừa làm nhiệm vụ của địa phương
vừa làm nhiệm vụ của Trung ương, là địa bàn đụng đầu quyết liệtnhất giữa 2 thế
lực cách mạng và phản cách mạng, đồng thời là nơi chứng kiến nỗi đau chia cắt
đất nước hơn 20 năm.
Với âm mưu xâm lược nước
ta từ lâu, khi thực dân Pháp thất bại buộc phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ đã
nhảy vào miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Chúng đẩy mạnh các hoạt động viện trợ, “cải
cách điền địa”, “tố cộng”, “diệt công”, tàn sát những chiến sĩ cộng sản và
người dân vô tội. Mục tiêu của chúng là xây dựng bờ nam sông Bến Hải thành bàn
đạp để xâm nhập, phá hoại miền Bắc.
Thực hiện chủ trương của
Trung ương và Tỉnh ủy, Huyện ủy Gio Linh đã lãnh đạo phong trào đấu tranh chính
trị đòi Mỹ nghiêm chỉnh thi hành các điều khoản của Hiệp định, đòi tự do, dân
chủ, hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu cử Quốc hội riêng rẽ, chống “trưng
cầu dân ý” của Ngô Đình Diệm. Song song với phong trào đấu tranh chính trị, các
chi bộ Đảng lãnh đạo nhân dân trong huyện đẩy mạnh sản xuất, xây dựng lại nhà
cửa, tu sửa trường học, trạm xá, chợ búa…
Trước phong trào đấu
tranh mạnh mẽ của quần chúng, bọn địch tập trung lực lượng bắt bớ cán bộ, đảng
viên và những người kháng chiến cũ, do đó, lực lượng của ta có một số tổn thất
nhất định. Từ trên 2000 đảng viên cuối năm 1954 đến năm 1957 chỉ còn trên 60
đồng chí, trên 1000 đảng viên bị bắt, tù đày, trong đó có một số không chịu nổi
sự tra tấn đã đầu hàng. Song, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên luôn trung
kiên, bất khuất, một dạ trung thành với Đảng, với dân, tiếp tục lãnh đạo phong
trào bước sang một giai đoạn đấu tranh mới.
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ huyện, đặc biệt sau khi tiếp thu Nghị quyết 15 (1/1959) của Trung ương
và Nghị quyết Tỉnh ủy (5/1959), phong trào cách mạng trong huyện dần dần được
phục hồi và từ cuối năm 1959, phong trào có nhiều chuyển biến tiến bộ. Nổi lên
là cuộc đấu tranh của nhân dân 3 xã Trung Hải, Gio Hà, Gio Mỹ đòi địch phá các
đoạn đường quân sự đắp ngang qua sông Bến Ngự, cứu các cánh đồng lúa khỏi ngập
úng. Cuộc đấu tranh buộc địch phải huy động lực lượng phá đường để tháo nước,
xây cống chống úng…
Tháng 10/1959, địch ra
“Đạo luật 10/59” lê máy chém khắp miền Nam tàn sát cán bộ, đảng viên và những
người yêu nước, uy hiếp quần chúng, gây nhiều tổn thất lớn cho lực lượng cách
mạng, càng đẩy mâu thuẫn giữa ta với địch lên đến tột đỉnh, phong trào đấu
tranh chuyển sang giai đoạn mới.
II. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
CỦA NHÂN DÂN GIO LINH DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (1960-1965)
Trong thời gian này,
địch âm mưu bình định vùng nông thôn, biến Gio Linh thành một khu tập trung
lớn, kiểm soát nghiêm ngặt người dân. Tháng 7/1961, Hội nghị Huyện ủy Gio Linh
mở rộng họp đề ra một số chủ trương công tác lớn: phải xây dựng được lực lượng
nòng cốt để lãnh đạo quần chúng đấu tranh phá âm mưu lập “ấp chiến lược” của
địch, phát động quần chúng đấu tranh thành lập chính quyền cách mạng. Sau khi
triển khai, phong trào ở Gio Linh cuối năm 1961 đầu 1962 đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Lực lượng vũ trang huyện được thành lập vào ngày 20/01/1961, gồm
1 trung đội. Với phương châm “diệt 1 rã 10”, “đánh trúng đầu rắn”, lực lượng vũ
trang huyện trong những ngày đầu mới thành lập đã tích cực hoạt động, hỗ trợ
quần chúng đấu tranh, quần chúng phấn khởi nổi dậy phá 3 “ấp chiến lược” Bách
Lộc, Xuân Mỵ, Xuân Long.
Cuối năm 1962,
Huyện ủy họp kiểm điểm tình hình, đồng thời chủ trương đẩy mạnh phá “ấp chiến
lược”, mở rộng vùng làm chủ. Đầu năm 1963, phong trào trong huyện phát triển
mạnh mẽ, phối hợp với lực lượng vũ trang diệt ác trừ gian, chống địch bắt lính,
lùng quét, vây ráp Nhân dân vào các “ấp chiến lược”.
Tháng 11/1963, chính
quyền Ngô Đình Diệm bị bọn tướng lĩnh đảo chính lật đổ. Lợi dụng tình hình đó,
quân và dân huyện ta đã nổi dậy phá được 10 ấp chiến lược, chủ yếu ở vùng biển.
Tháng 3/1964, lực lượng vũ trang huyện tấn công tiêu diệt trung đội dân vệ ở
Gio Hải, hỗ trợ quần chúng 13 thôn trong xã đồng loạt nổi dậy phá hàng rào dây
thép gai, cắt đứt dây điện thoại, lùng bắt ác ôn, kêu gọi anh em dân vệ trở về
với Nhân dân. Phong trào phá "ấp chiến lược" được mở rộng từ Gio An,
Gio Sơn, Gio Hải, Gio Mỹ đến 3 xã vùng giới tuyến.
Thực hiện lệnh đồng khởi
của Thường vụ Tỉnh ủy ra ngày 04/7/1964, Huyện ủy đã thành lập Uỷ ban khởi
nghĩa huyện,đồng thời chỉ đạo nhân dân các xã Gio An, Gio Sơn, Gio Hà, Gio Mỹ
với sự hỗ trợ lực lượng vũ trang nổi dậy phá ách kềm kẹp của địch. Tuy nhiên,
do ta thiếu sự chuẩn bị chu đáo tại chỗ, sau đồng khởi ta không thành lập được
chính quyền cách mạng nên ta không giữ được địa bàn làm chủ, địch phản kích lấy
lại.
Tháng 10/1964, Tỉnh ủy
cử đồng chí Nguyễn Đức Dũng ra chỉ đạo phong trào Gio Linh, phát động phong
trào đồng khởi đợt II. Huyện chọn xã Gio An làm điểm, rồi chuyển sang Gio Sơn,
thành lập được chính quyền cách mạng. Gio Sơn và Gio An lập thành khu căn cứ
của huyện, từ đây ta tiếp tục tiến về phát động đồng khởi ở vùng đồng bằng và
vùng biển. Qua phong trào, các tổ chức cơ sở Đảng càng được củng cố và phát
triển, lúc này Đảng bộ huyện đã có 29 chi bộ với 180 đảng viên, lực lượng vũ
trang huyện và du kích các xã được tăng thêm số lượng và kinh nghiệm chiến đấu.
Cuối năm 1964 đầu năm 1965, nhiều thôn của các xã Gio An, Gio Sơn, Trung Sơn,
Gio Hà được giải phóng, giải tán chính quyền địch, lập các Ban cán sự thôn.
Có thể nói, trải qua 10
năm đấu tranh cực kỳ gian khổ, ác liệt, chịu nhiều tổn thất, hy sinh nhưng dưới
sự lãnh đạo của Trung ương, Tỉnh ủy, Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh đã đoàn kết
một lòng, từng bước vượt qua khó khăn, đưa phong trào cách mạng của huyện tiến
lên, góp phần cùng toàn tỉnh và toàn miền đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ.
III. GIO LINH CHIẾN ĐẤU
GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965-1968)
Sau
thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển sang chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội Mỹ và các nước đồng minh vào tham chiến,
đồng thời tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm cứu vãn tình thế. Ở Gio
Linh, địch bố trí lực lượng ở các căn cứ chính: Quán Ngang, Dốc Miếu, Cồn Tiên,
Bái Sơn, Cao điểm 31, Cửa Việt, ngoài ra còn có 13 đồn cảnh sát dọc sông Bến
Hải.
Đầu tháng 8/1965, Đại
hội Đảng bộ huyện lần thứ tư được triệu tập tại Khe Mướp (Gio An)[26]. Đại hội đã kiểm điểm tình hình trong
huyện sau đợt đồng khởi và xác định quyết tâm chuẩn bị tinh thần, vật chất để
chủ động giáng trả ngay từ đầu khi đế quốc Mỹ cho quân viễn chinh đến địa
phương, tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng bộ đội địa phương huyện
và dân quân du kích các xã. Trước mắt là phối hợp với bộ đội địa phương tỉnh,
bộ đội chủ lực phá tan âm mưu của địch muốn thành lập tuyến phòng ngự ngăn chặn
vững chắc ở phía bắc khu vực Quảng Trị.
Cuối năm 1965, trên địa
bàn huyện Gio Linh, ta vẫn giành quyền kiểm soát vùng nông thôn và rừng núi.
Các xã miền tây hoàn toàn giải phóng, Gio An được chọn làm căn cứ của huyện,
các cơ quan Huyện ủy, huyện đội, Mặt trận dân tộc giải phóng đều đóng ở đây. Các xã khác trong huyện đều hình thành hai căn cứ:
căn cứ cơ bản đóng sâu trong vùng giải phóng, căn cứ “lõm” đặt ngay trong vùng
địch còn kiểm soát để chỉ đạo phong trào cách mạng của địa phương.
Ngày
16/7/1966, Mỹ - ngụy mở cuộc hành quân hỗn hợp có tên Lam Sơn –289 nhằm dồn dân của 3 xã Trung
Giang, Trung Hải, Trung Sơn quận Trung Lương và hai xã Gio An, Gio Sơn quận Gio
Linh vào trại tập trung, hòng bao vây tiêu diệt 2 trung đoàn chủ lực của ta ở
đây. Suốt 19 ngày đêm quần nhau với địch, du kích các xã phối hợp với sư đoàn
324B và trung đoàn 270 đã bẻ gãy cuộc hành quân đầu tiên quy mô lớn của Mỹ -
ngụy trên chiến trường Gio Linh, tiêu diệt hàng ngàn tên lính Mỹ, bắn cháy hàng
chục xe tăng, xe bọc thép, phá hủy hàng chục khẩu pháo. Cuối năm 1966 đầu năm 1967, 3 xã vùng giới tuyến
được giải phóng, Nhân dân bắt tay vào ổn định cuộc sống, xây dựng chính quyền
cách mạng ở thôn, xã.
Từ
tháng 6/1966, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bộ trưởng quốc phòng
Mỹ McNamara đã xây dựng hàng rào điện tử McNamara[27], Mỹ- ngụy tuyên bố chúng có thể
ngăn chặn có hiệu lực tuyến hành lang Bắc-Nam và sự chi viện của miền Bắc đối
với cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam, đồng thời khống chế, đàn áp phong
trào cách mạng của nhân dân Gio Linh và bắc Quảng Trị. Để triển khai, từ ngày 17/5
đến ngày 19/5/1967, Mỹ - ngụy đã mở cuộc hành quân càn quét trên quy mô lớn vào
3 xã vùng giới tuyến nhằm bốc dân vào các khu tập trung, tạo ra vành đai trắng.
Lực lượng bộ đội địa
phương huyện và du kích các xã đã anh dũng chống trả quyết liệt nhằm bảo vệ
nhân dân. Vì lực lượng quá chênh lệch, ta chỉ tiêu diệt được một số sinh lực
địch, nhưng không ngăn chặn được cuộc càn quét của chúng. Bọn Mỹ đã dùng những
hành động dã man giết chết trên 500 người, trong đó có đồng chí Nguyễn Bính
(Hảo) - Bí thư Huyện ủy. Tiếp đó, chúng
tập trung xe cày ủi trên 1.000 nóc nhà, khoảng 2 vạn ngôi mộ từ vùng Gio Hải
đến Cồn Tiên, Bái Sơn. Cày ủi đến đâu, chúng rải quân đóng chốt và lập hàng rào
đến đó, biến vùng phía nam sông Bến Hải thành vùng vành đai trắng,
không dân, nơi tự do bắn phá bằng các loại máy bay, pháo hạm, pháo tầm xa của
Mỹ ngụy.
Trong điều kiện chiến
đấu vô cùng khó khăn, ác liệt nhưng nhờ có quyết tâm cao, tinh thần gan dạ,
dũng cảm, lực lượng du kích, bộ đội địa phương huyện ta đã sáng tạo, suy nghĩ
ra nhiều cách đánh địch táo bạo, thông minh, mở ra khả năng mới và kinh nghiệm
bước đầu trong việc đánh phá hàng rào điện tử của địch, từng bước làm hạn chế
tác dụng đi đến đánh bại hoàn toàn âm mưu của địch[28].
Trong cuộc tiến công và
nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, phối hợp với chiến trường trong tỉnh và cả miền
Nam, quân và dân Gio Linh đã đồng loạt tiến công vào các vị trí đóng quân của
địch, bẻ gãy nhiều cuộc phản công của chúng; Nhân dân nổi dậy phá thế kềm kẹp,
giành quyền làm chủ ở nhiều xã.
Lúc này, Thường vụ Khu
ủy Trị-Thiên Huế quyết định thành lập Liên Huyện ủy Gio - Cam, do đồng chí Vũ
Soạn làm Bí thư. Liên Huyện ủy Gio - Cam đã phân công cán bộ về từng địa bàn cơ
sở để thúc đẩy các địa phương, đơn vị tiếp tục truy kích địch, phá thế kềm kẹp
của chúng, chuẩn bị sẵn sàng đánh địch phản kích.
Sau cuộc tổng tiến công
và nổi dậy tết Mậu Thân, bọn địch tập trung lực lượng phản kích nhằm chiếm lại
những vùng đã bị mất. Ở Gio Linh, Mỹ- ngụy tập trung đánh phá vùng ven sông Cửa Việt đến Đông Hà như
Gio Hải, Gio Hà, Gio Mỹ, Cam Giang. Hàng trăm đồng bào ta bị bom chết, hàng
ngàn nhà cửa bị đốt cháy, nhân dânbị lùa vào khu tập trung Cửa Việt, 86 làng bị
bom đạn hủy diệt chỉ trừ thôn Lạc Tân và 3 xóm đông Quốc lộ 1A của thôn Hà
Thượng.
Việc
tổ chức bám trụ đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, chỉ đạo cơ sở mật hoạt động
ở các khu tập trung đang đặt ra cho lãnh đạo Liên Huyện ủy và các xã những thử
thách nặng nề, phức tạp[29]. Tổng kết phong trào năm 1968, liên
Huyện ủy Gio – Cam đã đề nghị Khu ủy, Mặt trận Đường 9 tặng Huân chương cho một
số đơn vị và cá nhân lập thành tích xuất sắc và tặng danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ,
diệt ngụy.
IV. CHỐNG CHIẾN LƯỢC
“VIỆC NAM HÓA CHIẾN TRANH”, TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY GIẢI PHÓNG QUÊ HƯƠNG
(1969-1972)
Thắng lợi của cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 đã làm phá sản chiến lược "Chiến
tranh cục bộ" của Mỹ, buộc chúng phải ngừng ném bom phá hoại miền Bắc và
chấp nhận đàm phán với ta ở Pari. Nhưng với bản chất hiếu chiến, Ních-xơn sau
khi trúng cử Tổng thống đã thực hiện chiến lược chiến tranh mới - "Việt
Nam hoá chiến tranh".
Ở Gio Linh, địch tăng
cường thả máy thu tiếng động, máy cảm ứng dọc tuyến hàng rào điện tử để phát
hiện mục tiêu, đánh phá hành lang, kho tàng dự trữ của ta. Chúng củng cố các cứ
điểm, đồn bốt trên hệ thống phòng ngự, dùng phi pháo, bom toạ độ B52, chất độc
hoá học đánh phá ác liệt trên phạm vi toàn huyện, nhất là vùng giới tuyến nhằm
hủy diệt toàn bộ xóm làng, nhà cửa. Toàn huyện có 68 làng thì chỉ còn 2 nửa
làng tương đối nguyên vẹn (làng Lạc Tân và vùng Đông của làng Hà Thượng). Sau
đợt đánh phá hủy diệt này, chúng thúc ép dồn dân còn lại của xã Gio Hải vào khu
tập trung Cửa Việt, dồn dân Gio Sơn, Gio Hà, 4 thôn của xã Gio Mỹ, 2 thôn của
xã Gio An vào khu tập trung Quán Ngang. Đồng thời, địch tăng cường chiêu hồi,
chiêu hàng nhằm dụ dỗ, kết hợp hăm dọa những gia đình có chồng con đi theo cách
mạng. Hoạt động của địch đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất[30]. Đời sống của Nhân dân trong các khu tập
trung bị o ép, thiếu thốn.
Trước tình hình đó, Liên
Huyện uỷ chủ trương cho các đơn vị, các xã liên tục tiến công địch trên mặt
trận quân sự cũng như chính trị, binh vận[31].
Giữa
lúc quân và dân Gio Linh đang cùng Nhân dân cả nước chống chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” thì ngày 02/9/1969, được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời,
toàn Đảng, toàn quân, toàn dân huyện nhà vô cùng thương tiếc, tổ chức để tang,
lễ truy điệu Bác. Trong khu tập trung Cửa Việt đã có hàng ngàn người đeo băng
đen, mặc áo đen để tang, làm lễ cầu siêu, lập bàn thờ Bác. Biến đau thương
thành hành động, cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân trong huyện nêu cao quyết tâm
thực hiện Di chúc của Bác, muôn người như một, xiết chặt đội ngũ, kiên quyết
bám dân, bám đất hoạt động, chiến đấu đến cùng để giành cho được độc lập, tự
do.
Trong năm 1970, các lực
lượng vũ trang huyện ta đã độc lập tác chiến đánh được 938 trận, diệt 2.081 tên
địch, làm bị thương 140 tên, phá hủy và phá hỏng 168 xe quân sự (trong đó có 55
xe tăng, xe bọc thép), bắn rơi 13 máy bay, bắn chìm 4 tàu chiến, phá 8 cầu
cống, cắt 3.880m rào thép gai, thu 22 súng.
Trong năm 1971, lực
lượng vũ trang Gio Linh đã tổ chức đánh địch với 315 trận, diệt 419 tên, bị
thương 89 tên, bắn cháy 7 xe tăng, 3 xe quân sự, đánh sập 9 lô cốt, bắn rơi 2
máy bay, bắt sống 3 tên Mỹ (có 2 giặc lái), thu 13 súng, 3 máy bộ đàm và nhiều
tài liệu quan trọng; cắt 3.218 mét hàng rào kẽm gai trên tuyến hàng rào điện tử
Mac-na-ma-ra.Nhận xét về phong trào năm 1971, Nghị quyết Thường vụ Khu ủy
Trị - Thiên Huế viết: “Hoan nghênh bước chuyển biến mới của phong trào Gio –
Cam, đặc biệt là Gio Linh đã đưa phong trào quần chúng lên cao, hình thành mặt
trận đấu tranh công khai sắp tới”.
Căn cứ vào tình hình
chiến trường và công tác chuẩn bị chiến lược, đầu năm 1972, Quân ủy Trung ương
quyết định chọn Trị - Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu và được Bộ
Chính trị thông qua.
Thực hiện chủ trương của
Quân ủy Trung ương, kế hoạch tác chiến của Bộ Tư lệnh chiến dịch 702 và Khu ủy Trị-Thiên-Huế, ngày 24/3/1972, Huyện ủy mở Hội
nghị tại thôn Hiền Lương (Vĩnh Thành, Vĩnh Linh) do đồng chí Phan Chung - Bí
thư Huyện ủy chủ trì, với nội dung: "Xây dựng kế hoạch tấn công nổi dậy
giải phóng quê hương” và nêu quyết tâm: "Phát huy sức mạnh tổng hợp quân
sự, chính trị kiên quyết đẩy mạnh tiến công vũ trang kết hợp với nổi dậy của
quần chúng và đấu tranh binh vận, nhằm tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ đất đai,
giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân, phối hợp đắc lực với mặt trận của
chiến dịch xuân 1972".
Trong kế hoạch tác
chiến, toàn huyện chia làm 3 khu: Khu đông, khu giữa và khu Tân Tường[32].
Đêm 28/3/1972, các đội
công tác, bộ đội địa phương và lực lượng du kích các xã đã tập kết theo địa
bàn, áp sát các mục tiêu đã được phân công.
Từ ngày 30/3 đến
ngày 02/4/1972, trên hướng chủ yếu của chiến dịch,
quân và dân ta đã phá vỡ tuyến phòng thủ kiên cố nhất của địch. Toàn bộ các vị
trí của địch trên bốn cánh cung Đông-Tây-Nam-Bắc được mệnh danh "lá chắn
thép", "pháo đài bất khả xâm phạm", "hàng rào điện tử McNamara"
của địch đã bị ta xóa sổ vĩnh viễn. Quân dân ta đã tiêu diệt gọn 1 trung đoàn,
đánh thiệt hại 3 trung đoàn và thiết đoàn 20, 4 căn cứ trung đoàn, 7 căn cứ
tiểu đoàn và 2 chi khu quân sự, nhiều căn cứ giả chiến khác, làm bàn đạp để ta
tiếp tục tấn công sâu vào tuyến phòng thủ dự bị của địch trong thời gian tới; 3
huyện Gio Linh, Hướng Hóa, Cam Lộ với hơn 10 vạn dân được hoàn toàn giải phóng
vào ngày 02/4/1972.
Trong
chiến dịch này, quân và dân huyện ta đã đánh 205 trận, diệt 727 tên (có 3 sĩ
quan cấp tá, 2 đại uý, 4 thiếu uý), diệt một ban chỉ huy tiểu đoàn, 1 ban chỉ
huy liên đoàn bảo an, 2 ban chỉ huy đại đội, 4 trung đội dân vệ, 1 trung đội
bảo an; đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn cộng hoà, 2 trung đội bảo an, 4 trung
đội dân vệ, bắt sống 104 tên, làm bị thương 32 tên, thu 430 súng, bắn cháy 11
xe quân sự, bắn rơi 6 máy bay và bắn bị thương 5 chiếc khác, bắn chìm 8 tàu vận
tải và tuần tiểu, gọi hàng 227 tên, phá 3 khu tập trung dân của địch, giải
phóng hơn 15.000 dân bao năm sống trong sự kềm kẹp ở trong khu tập trung, nay
trở về làng cũ.
Cuộc tiến công chiến
lược trên toàn miền Nam năm 1972 đã giáng một đòn chí tử vào đế quốc Mỹ và tay
sai. Chiến thắng đó, cùng với thắng lợi của quân dân miền Bắc trong trận “Điện
Biên Phủ trên không” đã làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của
địch, buộc chúng phải ký vào bản Hiệp định Pari, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
V. RA SỨC XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ VÙNG GIẢI PHÓNG, TẬP TRUNG THỰC LỰC CÙNG CẢ NƯỚC TIẾP TỤC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ ĐẾN THẮNG LỢI CUỐI CÙNG (1972-1975)
1. Giai đoạn từ tháng
4/1972 đến tháng 1/1973
Ngày 02/4/1972, quê hương Gio Linh sạch bóng quân thù.
Nhân dân ở các khu tập trung của địch mới được giải phóng đã hồ hởi trở về làng
cũ. Trước bao bộn bề công việc đặt ra cho Đảng bộ huyện phải tập trung giải
quyết thì ngày 3/4/1972, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai huy động lực lượng không
quân và pháo hạm liên tục dội bom, bắn phá rất ác liệt vào vùng giải phóng Gio
Linh.
Trước tình hình đó, ngày
5/4/1972, Huyện ủy họp bàn và quyết định một số nhiệm vụ cấp bách trước mắt là
“ổn định đời sống Nhân dân, đưa một bộ phận dân ra sơ tán ở Vĩnh Linh, ra sức
xây dựng vùng giải phóng, huy động lực lượng vũ trang của huyện cùng với quân
và dân cả tỉnh tấn công địch ở các vùng phía nam”.
Thực hiện chủ trương của
Huyện ủy, các địa phương, đơn vị vũ trang huyện bố trí lực lượng ở các hướng,
sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt bọn biệt kích, thám báo địch liều lĩnh xâm phạm
vùng giải phóng, kịp thời trấn áp bọn ngụy quân, ngụy quyền đang tìm cách ngóc
đầu dậy chống phá cách mạng. Huyện tăng cường công tác ổn định tình hình tư
tưởng, hướng dẫn Nhân dân xây dựng hầm hào, lán trại để trú ẩn vừa huy động lực
lượng phục vụ cho cuộc chiến đấu ở phía trước như sửa chữa đường thông tuyến
cho xe qua, tập trung thuyền chở bộ đội qua sông, chăm sóc, chuyển thương binh
ra tuyến sau, chuyển hàng hóa, vũ khí cho phía trước, tiếp nhận và phân phối
kịp thời nguồn tiếp viện của miền Bắc, huy động gần hết lực lượng bổ sung cho
các huyện ở phía trước. Đi đôi với công tác chiến đấu, phục vụ chiến đấu, Đảng
bộ đã lãnh đạo Nhân dân khắc phục mọi khó khăn, khôi phục sản xuất, xây dựng
phong trào văn hóa, giáo dục, y tế.
7 giờ sáng ngày
27/01/1973, trước khi Hiệp định Pari được ký kết, Mỹ - ngụy âm mưu chiếm lại
cảng Cửa Việt. Chiều 30/01/1973, địch đã ở gần ngoại vi cảng Cửa Việt. Sáng
31/01/1973, quân ta tổ chức trận phản kích. Bị bao vây tiến công từ 3 phía,
toàn bộ lực lượng địch tham gia cuộc lấn chiếm cảng Cửa Việt mở đường máu tháo
chạy nhưng không thoát. Ta tiêu diệt gần 3.000 tên địch và 2/3 số xe tăng, xe
thiết giáp tham chiến, thu giữ 13 xe tăng và thiết giáp. Đến trưa 31/01/1973,
mặt trận Cửa Việt mới im tiếng súng.
Trong thời gian ngắn và
còn nhiều khó khăn, Đảng bộ và Nhân dân trong huyện đã lập được một số thành
tích quan trọng có ý nghĩa không những kịp thời ổn định tình hình chính trị, tư
tưởng, đời sống cho Nhân dân mà còn tạo địa bàn đứng chân cho các đơn vị chủ
lực, bộ đội địa phương tỉnh, làm bàn đạp tiến công ở bờ nam sông Thạch Hãn,
cùng cả nước đánh bại âm mưu, thủ đoạn mới của địch.
2. Giai đoạn từ tháng
2/1973 đến tháng 4/1975
Hiệp định Pari đánh dấu
bước ngoặt quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng thời tạo những thuận
lợi cơ bản làm thay đổi tương quan lực lượng theo hướng có lợi cho ta, cuộc đấu
tranh của ta cũng chuyển sang một giai đoạn mới.
Tháng
5/1973, Huyện ủy họp, phân tích đặc điểm tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn
mới và ra Nghị quyết: “Kiên quyết giữ vững hòa bình, ra sức xây dựng thực lực
cách mạng, không ngừng nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ
đoạn của địch”, đồng thời nhấn mạnh: “phải ra sức phục hồi và phát triển sản
xuất, tập trung lực lượng cho khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích lúa, hoa
màu, đẩy mạnh sản xuất, tiến tới tự túc được lương thực cho Nhân dân trong
huyện”.
Thực hiện Nghị quyết của
Hội nghị Tỉnh ủy (12/1974), Ban chấp hành huyện Đảng bộ quyết định triệu tập
Đại hội đại biểu huyện Đảng bộ lần thứ 5 vào ngày 26/2/1975, tại thôn Lạc Tân,
xã Gio Lễ[33]. Đây là Đại hội lần đầu tiên của Đảng bộ
Gio Linh được tổ chức trong khung cảnh huyện nhà được hoàn toàn giải phóng,
chính quyền cách mạng được lập lại. Đại hội kiểm điểm đánh giá tình hình các
phong trào của huyện từ ngày giải phóng đến nay, trên cơ sở đó, vạch ra phương
hướng hoạt động 2 năm tới với những nhiệm vụ chính là:
- Chiến đấu, sẵn sàng
chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất xây dựng vùng giải phóng vững mạnh về mọi mặt, đáp
ứng kịp thời các yêu cầu trong tình hình mới.
- Chuẩn bị thực lực cách
mạng, góp phần cùng cả tỉnh giải phóng phần đất và số dân còn lại ở các huyện
phía nam tỉnh.
Đại hội cũng thông qua
phương hướng xây dựng và phát triển kinh tế và xã hội trong những năm tới nhằm
đưa huyện nhà trở thành một đơn vị mạnh của vùng giải phóng Quảng Trị.
Triển khai thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 5, Hội nghị Huyện ủy vào đầu tháng
3/1975 tập trung bàn các biện pháp thực hiện chỉ tiêu kinh tế-xã hội trong năm
1975. Đồng thời quyết định chọn lựa cán bộ, chiến sĩ thành lập các đội chính trị
và vũ trang trực tiếp làm nhiệm vụ ở phía trước, cùng với các lực lượng của
tỉnh và các huyện thị đánh địch, phá kềm, phát động quần chúng nhất là quần
chúng Nhân dân Gio Linh bị địch đưa vào sống ở các khu tập trung, kịp thời nổi
dậy tham gia tấn công, vây ép địch dọc tuyền phòng ngự ở phía nam tỉnh, theo sự
phân công của tỉnh đội, góp phần giải phóng phần đất còn lại của tỉnh vào ngày
19/3/1975 cũng như giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, với vị trí đầu cầu giới tuyến của miền Nam, trực tiếp miền
Bắc Xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Gio Linh là một trong
những trọng điểm đánh phá quyết liệt và liên tục của địch, là nơi thí điểm các
chiến lược chiến tranh thâm độc, dã man của đế quốc Mỹ. Từ những chiến dịch
"tố cộng" đẫm máu đến triển khai tuyến hàng rào điện tử McNamara,
ngăn chặn tuyến hành lang Bắc-Nam, Mỹ-ngụy đã tập trung lực lượng hải - lục -
không quân đánh phá ác liệt nhằm triệt phá làng mạc, giết hại cán bộ và Nhân
dân huyện ta, gây nên bao cảnh đau thương, tang tóc.
Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Bác Hồ vĩ đại, trực tiếp là sự lãnh đạo của Khu uỷ, Tỉnh ủy và sự giúp
đỡ to lớn của Nhân dân cả nước, cả tỉnh, Đảng bộ và Nhân dân huyện Gio Linh đã
đoàn kết nhất trí, đồng tâm cộng khổ, vượt qua mọi thử thách và hy sinh, kiên
cường chiến đấu, liên tục giành nhiều chiến công oanh liệt, giải phóng hoàn
toàn quê hương, góp phần vào sự nghiệp thống nhất đất nước.
Nhìn lại chặng đường
lịch sử đã qua, chúng ta tự hào với truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường
của Đảng bộ và Nhân dân huyện nhà. Ngay từ khi chi bộ Đảng đầu tiên ra đời năm
1932, thực dân Pháp và tay sai tìm mọi cách khủng bố nhằm bóp chết tổ chức Đảng
và phong trào cách mạng ở Gio Linh. Như những hạt giống được gieo vào những
mảnh đất màu mỡ, Đảng ta đã bám chắc rễ bền gốc và phát triển mạnh mẽ trong
phong trào cách mạng của quần chúng. Bất chấp mọi khó khăn, gian khổ và hy sinh
mất mát, Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc cách mạng
tháng Tám, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thành công, giải phóng
quê hương vào ngày 02/4/1972, tiếp tục hàn gắn vết thương chiến tranh, là hậu
phương để tiếp tục góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
năm 1975.
Bài 5
ĐẢNG BỘ HUYỆN GIO LINH
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 – 1990)
I. NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC
ĐẦU SAU 2 NĂM TÁI THIẾT QUÊ HƯƠNG (1975 - 1977)
11
giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ giải phóng tung bay trên nóc Dinh Độc lập,
báo hiệu miền Nam hoàn toàn giải phóng, kết thúc một trang sử đầy gian khổ, hy
sinh nhưng rất đỗi hào hùng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc
lập, tự do, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hòa chung trong niềm vui
thắng lợi đó, Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh phấn khởi, hăng hái thi đua, tiếp
tục vượt qua khó khăn, thử thách, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng quê
hương.
Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện (khóa V) đã ban hành các Nghị quyết tập trung vào nhiệm vụ “Ra sức khôi
phục phát triển kinh tế, văn hóa đi đôi với cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng vật chất, kỹ thuật, tạo
điều kiện tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ cấu kinh tế toàn
diện có công nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến. Trước mắt tập trung sức
hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định từng bước, cải thiện đời sống, tinh
thần, vật chất của Nhân dân”. Thực hiện Nghị quyết, các phong trào thi đua lao
động sản xuất, cần kiệm xây dựng quê hương, khai hoang phục hóa, mở rộng diện
tích, rà phá bom mìn, quy tập mồ mả, xây dựng hợp tác xã và tập đoàn sản
xuất được phát động mạnh mẽ và đông đảo Nhân dân hưởng ứng, tạo nên một
sức sống mới, một khí thế mới cho công cuộc xây dựng quê hương, góp phần ổn
định đời sống Nhân dân. Tuy vậy, phong trào cũng còn những khó
khăn, hạn chế nhất định.
Thực hiện Nghị quyết số 136-NQ/TU ngày
23-8-1975 của Tỉnh ủy về
việc điều chỉnh dân cư đi xây dựng vùng kinh tế mới, Ban Thường vụ Huyện ủy và Ủy ban nhân dân huyện đã
tích cực chỉ đạo, triển khai kế hoạch đưa Nhân dân các xã khu vực phía đông của
huyện lên xây dựng vùng kinh tế mới ở miền tây huyện. Đây là một chủ trương lớn đáp ứng được tình hình
phân bổ dân cư của huyện, song cũng là một nhiệm vụ khá khó khăn. Các cấp ủy
Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể đã tích cực tuyên truyền, vận động, động
viên bà con, đồng thời cử cán bộ, đảng viên, đoàn viên tình nguyện xung phong
đi trước. Nhờ đó, chỉ trong vòng vài tháng, đến cuối năm 1975, toàn huyện đã có
trên 3.500 nhân khẩu từ các xã Gio Mỹ, Gio Hà, Trung Hải, Gio Hải lên thành lập
các xã kinh tế mới Gio Hòa, Gio Bình, đồng thời tiếp nhận 11.000 nhân khẩu của huyện Hải Lăng ra xây
dựng vùng kinh tế mới ở miền tây huyện và
thành lập ra 3 xã Hải Trung, Hải Thái và Hải Bình.
Khắp nơi trong huyện đã đẩy mạnh các hoạt động
thông tin văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao góp phần xây dựng đời sống văn
hóa mới, đẩy lùi và xóa bỏ các tập tục lạc hậu, ổn định tư tưởng, nâng cao đời
sống tinh thần cho Nhân dân.
Ngành giáo dục của huyện gặp nhiều khó khăn cả
về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Huyện đã huy động nội lực để xây dựng
trường, lớp; tranh thủ sự chi viện giáo viên của các tỉnh phía bắc, sử dụng lại
một số giáo viên của chế độ cũ đồng thời bồi dưỡng cấp tốc nghiệp vụ sư phạm
cho số học sinh K8 học hết cấp II trở về, bước đầu giải quyết sự thiếu hụt giáo
viên; mở rộng việc học bổ túc văn hóa, nạn mù chữ cơ bản được thanh toán[34].
Công tác y tế được huyện
coi trọng và chỉ đạo tích cực. Phòng Y tế đã cử nhiều đội xuống cùng xã, thôn
để tiêm phòng và khám chữa bệnh cho Nhân dân, các dịch bệnh được dập tắt kịp
thời. Cơ sở chữa bệnh ở tuyến xã được xây dựng, có hơn 80 cán bộ y tế với trên
80 giường bệnh. Tuyến huyện có 1 bệnh viện, 1 bệnh xá với gần 100 giường bệnh.
Đảm bảo 400 dân có 1 giường bệnh và 4.000 dân có 1 y, bác sĩ.
Trước tình hình các phần tử phản cách mạng, lợi
dụng khó khăn của ta để chống phá dưới nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, Ban
Chấp hành Đảng bộ đã ra Nghị quyết số 11, ngày 1/6/1976 tăng cường công tác bảo
vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự xã hội trong tình hình mới. Trong toàn
huyện đã dấy lên phong trào bảo vệ an ninh Tổ quôc sâu rộng trong cán bộ, công
nhân viên và các tầng lớp Nhân dân. Ngoài lực lượng vũ trang của huyện, các xã phát triển mạnh
lực lượng du kích, dân quân, an ninh xã, thôn[35]. Việc huấn luyện, diễn tập nâng cao
trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho lực lượng vũ trang, bán vũ trang được chú
trọng. Nhờ đó, đã góp phần quan trọng vào việc tái thiết, xây dựng và bảo vệ
quê hương.
Công tác xây dựng Đảng được
quan tâm. Các cấp ủy đảng liên tục mở các đợt sinh hoạt chính trị giúp cán bộ,
đảng viên nắm bắt các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, nâng cao nhận thức chính
trị, đề cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết nhất trí,
quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, đi đầu trong mọi nhiệm vụ. Tập trung củng cố
các tổ chức cơ sở đảng, chăm lo phát triển đảng viên, bồi dưỡng đào tạo đội ngũ
cán bộ[36]. Hệ
thống chính quyền từ huyện đến xã đã được củng cố, kiện toàn[37]. Mặt trận và các đoàn thể được củng cố, phát
triển và đã phát huy được vai trò, trách nhiệm trong việc tập hợp,
động viên và phát động đoàn viên, hội viên tham gia các phong trào hành động
cách mạng, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong các tầng lớp Nhân dân tham gia xây
dựng Đảng, chính quyền và xây dựng quê hương.
Những thành quả bước đầu sau 2 năm tái thiết quê
hương đã khẳng định vai trò của Đảng bộ, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể,
sự quyết tâm và niềm tin của Nhân dân vào chế độ mới, góp phần tạo động lực và
cơ sở cho Gio Linh phát triển đi lên trong những năm tiếp theo.
II. ĐẢNG BỘ BẾN HẢI LÃNH
ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1977 - 1989)
1.
Đảng bộ Bến Hải được thành lập, lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
(1977 - 1985)
* Giai đoạn 1977 - 1980
Tháng 5/1976, sau khi ba
tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế sáp nhập thành tỉnh Bình Trị
Thiên, ngày 11/3/1977, Chính phủ ký Quyết định 62/CP sáp nhập hai huyện Gio
Linh, Vĩnh Linh và 8 xã thuộc huyện Cam Lộ thành huyện Bến Hải, trên cơ sở đó,
Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên quyết định thành lập Đảng bộ huyện Bến Hải và
chỉ định Ban Chấp hành lâm thời gồm 16 đồng chí, Ban Thường vụ lâm thời gồm 6
đồng chí, do đồng chí Cao Văn Đàn làm Bí thư và đồng chí Nguyễn Đức Ấm, đồng
chí Dương Tú Anh làm Phó Bí thư.
Ban Chấp hành Đảng bộ và
Ban Thường vụ Huyện ủy lâm thời đã nhanh chóng chỉ đạo triển khai sắp xếp, ổn
định lại bộ máy các cấp, ổn định đời sống, sinh hoạt và sản xuất cho Nhân dân;
đẩy mạnh công tác văn hóa tư tưởng; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh.
Ngày 08 và 09/9/1977,
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bến Hải lần thứ I được tiến hành[38]. Đại hội đã kiểm điểm tình hình từ khi
huyện nhà hợp nhất và đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, các giải pháp lớn
cho kế hoạch 1977-1980.
Từ
ngày 08
đến 12/02/1980,
Đại hội Đảng bộ huyện Bến Hải lần thứ II được tiến hành[39], tiếp tục đề ra phương hướng, nhiệm vụ
phát triển cho những năm tiếp theo: động viên cao độ sức lực toàn dân, đẩy mạnh
sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp, phát triển hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, trọng
tâm là sản xuất lương thực-thực phẩm…, tiếp tục cải tạo và củng cố quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật, từng bước
đưa nền kinh tế của huyện vào thế ổn định.
Quán triệt Nghị quyết
của Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ I, lần thứ II, Ban Chấp hành Đảng bộ (khóa I,
II) đã cụ thể hóa và chỉ đạo tổ chức thực hiện khá tập trung, kiên quyết nên đã
đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt.
Huyện đã chú trọng giải
quyết vấn đề tưới tiêu, mở rộng diện tích gieo trồng; khai hoang phục hóa, rà
phá bom mìn, cất bóc mồ mả, quy hoạch đồng ruộng; mở rộng vùng kinh tế mới[40]. Vấn đề xây dựng và củng cố quan hệ sản
xuất XHCN được tập trung chỉ đạo tích cực, khẩn trương.
Ngành
giáo dục mặc dù vẫn còn những khó khăn nhưng cũng xuất hiện nhiều điểm sáng[41]. Trường cấp III vừa học, vừa làm Cồn
Tiên được thành lập năm 1979, gắn với Nông trường quốc doanh Cồn Tiên đã thu
hút hàng ngàn học sinh có hoàn cảnh kinh tế khó khăn theo học, vừa học vừa chăm
lo công tác trồng cây phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng vườn rừng, là trường
duy nhất trong toàn quốc trồng được nửa triệu cây. Trường cấp I xã Gio Hoà là
trường được chọn làm điểm nhân rộng của ngành về nâng cao chất lượng dạy học,
cải tiến giảng dạy, sáng kiến kinh nghiệm và đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình
Trị Thiên công nhận Lá cờ đầu phong trào vở sạch, chữ đẹp. Các bệnh viện và
trạm xá đều được nâng cấp và xây mới, nâng cao chất lượng khám và chữa bệnh.
Công tác chính sách xã hội thường xuyên được quan tâm, coi trọng và đạt được
nhiều kết quả.
Xác định Bến Hải là một
địa bàn quan trọng với nhiều vị trí chiến lược trọng yếu và có đặc thù riêng về
địa chính trị, đồng thời cuối năm 1978, đầu năm 1979 diễn ra cuộc chiến tranh
biên giới phía tây nam và các tỉnh phía Bắc, Đảng bộ đã tập trung đẩy mạnh tăng
gia sản xuất, hoàn thành nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước, động viên thanh niên
nhập ngũ, tham gia chiến đấu, ra sức phòng thủ giữ vững địa bàn, tổ chức lực
lượng tự vệ và huấn luyện quân sự hàng năm. An ninh chính trị và trật tự trị an
được đảm bảo, các tệ nạn xã hội giảm hẳn.
Đảng bộ thường xuyên chú
trọng đến việc củng cố và xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao trình độ,
năng lực và ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên; nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ, đảng bộ; nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi dưỡng phẩm chất,
đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật, đẩy mạnh công tác phê bình và tự phê
bình. Việc củng cố và xây dựng các tổ
chức cơ sở Đảng được chú trọng: Từ sau Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ I, Ban
Thường vụ Huyện ủy đã sắp xếp lại các tổ chức cơ sở Đảng, từ 123 đảng bộ, chi
bộ khi mới thành lập (với gần 7000 đảng viên) đến cuối năm 1977 còn 119 đảng
bộ, chi bộ và đến năm 1980 còn 98 đảng bộ, chi bộ trực thuộc. Công tác kiểm tra
phân loại đảng viên, phát triển đảng, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi
Đảng được chú trọng[42]. Từ năm 1977-1980 đã bồi dưỡng, kết nạp
được 580 đảng viên.
Bộ máy chính quyền từ
huyện đến cơ sở tiếp tục được củng cố. Hoạt động của Hội đồng Nhân dân, Ủy ban
Nhân dân dần đi vào nền nếp, đảm bảo vai trò quyết định, giám sát của HĐND và
quản lý, điều hành của UBND, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Mặt trận, các đoàn thể đã từng bước được kiện
toàn, đã vận động các tầng lớp Nhân dân thực hiện tốt các phong trào thi đua,
các cuộc vận động. Đoàn Thanh niên phát huy phong trào Bình Trị Thiên
quật khởi, phong trào 4 mũi tiến công, Xây dựng cánh đồng thực nghiệm, Cánh
đồng cao sản, Hố phân tấn thóc; phong trào khai hoang phục hóa, phong trào
làm thủy lợi… Hội Phụ nữ với phong trào 3 con 8 (3 con lợn + 8 sào ruộng/hội
viên/năm), xây dựng gia đình văn hóa mới. Hội Nông dân với phong trào nông dân
làm chủ trận địa ruộng đồng, vận động đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm, làm tròn
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Tuy
nhiên, các chỉ tiêu, kế hoạch về kinh tế - xã hội huyện đề ra hầu hết thực hiện
không đạt. Văn hóa thông tin, y tế, giáo dục, mạng lưới truyền thông phát triển
chậm. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền còn nhiều thiếu sót. Hoạt động của
mặt trận và các đoàn thể chưa có chiều sâu...
*Giai đoạn 1981 - 1985
Thực hiện Nghị định số
64/HĐBT ngày 11-9-1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc mở
rộng thị xã Đông Hà và huyện Hướng Hóa, 10 xã thuộc huyện Cam Lộ (cũ) được tách
ra khỏi huyện Bến Hải, nhập vào thị xã Đông Hà 8 xã, nhập vào huyện Hướng Hóa 2
xã. Toàn huyện Bến Hải còn lại 46 xã, 1 thị trấn với tổng số dân là 13 vạn
người. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện (khóa II) tiến hành điều
chỉnh lại một số chỉ tiêu, kế hoạch để tiếp tục lãnh đạo nhân dân quyết tâm
thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, với tinh thần khẩn trương,
tích cực, vững chắc.
Từ
ngày 16 đến 21/12/1982, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bến Hải lần thứ III (đợt
2, nhiệm kỳ 1983-1985) được tiến hành[43]. Đại hội đã đánh giá những kết quả đạt
được, chỉ ra những mặt hạn chế, yếu kém, nguyên nhân, đồng thời thống nhất đề
ra nhiệm vụ, mục tiêu trong những năm 1983-1985 với nhiệm vụ hàng đầu là đẩy
mạnh phát triển kinh tế toàn diện sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp, công nghiệp với
quy mô lớn, tốc độ nhanh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, cân đối, đồng bộ…
Bắt tay vào thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện, tuy gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là bão lụt
tháng 10/1983, 1985 gây tổn thất toàn diện và nghiêm trọng chưa từng có, làm
đảo lộn cuộc sống của người dân nhưng Đảng bộ và Nhân dân huyện nhà đã đoàn kết,
nỗ lực vượt qua khó khăn, giành được những kết quả quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực.
Về kinh tế: Thực hiện phân bổ lại lao động, dân cư, củng
cố xây dựng hợp tác xã và khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo Chỉ thị 100
(ngày 13/1/1981) của Ban Bí thư đã góp phần tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ
trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, riêng các xã thuộc Gio Linh, tổng sản
lượng lương thực bình quân hàng năm từ 1981 - 1984 là 7.100 tấn[44]. Về
ngư nghiệp, sản lượng khai thác, nuôi trồng thủy hai sản năm 1981 khai thác hải
sản đạt 1.750 tấn, đến năm 1985 là 2.500 tấn. Giá trị tổng sản
lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp không ngừng tăng lên, từ 35,4 triệu
đồng năm 1981 lên 70,3 triệu đồng năm 1985.
Trong xây dựng cơ bản
huyện đã đầu tư xây mới nhiều cầu cống, tuyến giao thông như Bến Ngự-Gio Việt,
Chợ Kên – Nghĩa trang Trường Sơn, khởi công xây dựng hồ chứa nước Kinh Môn...
Các hoạt động trên lĩnh vực lưu thông phân phối, mạng lưới mậu dịch quốc doanh,
các hợp tác xã mua bán được củng cố và mở rộng... Các ngành tài chính, ngân
hàng, xuất nhập khẩu đã có nhiều chuyển biến, phục vụ tốt nhu cầu của Nhân dân.
Về văn hóa – xã
hội: Các hoạt động văn hóa,
thông tin, thể dục, thể thao, giáo dục, y tếkhông ngừng được nâng cao về chất
lượng, góp phần tạo sự chuyển biến mới về nhận thức và hành động, xây dựng nền
văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, khơi dậy truyền thống anh dũng của
quê hương, tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Liên tục 3 năm từ
1981-1983, Bến Hải luôn đạt đơn vị tiên tiến xuất sắc của Bộ Văn hóa-Thông tin,
năm 1983, huyện được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng
Ba. Bến Hải là một trong 3 huyện, thị của tỉnh đạt khá về giáo dục. Hoạt động y
tế đạt được nhiều kết quả tích cực, 100% số xã có trạm y tế, chất lượng khám
chữa bệnh không ngừng được nâng cao. Năm 1984, ngành y tế huyện được Hội đồng
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Công tác chính sách xã hội
được quan tâm thường xuyên.
Về quốc phòng – an
ninh: Ý thức cảnh giác cách
mạng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân được nâng lên, chấp hành tốt pháp luật,
nghĩa vụ quân sự và công tác quản lý, huấn luyện quân dự bị, quần chúng bảo vệ
an ninh Tổ quốc. Lực lượng dân quân tự vệ luôn chiếm 13 - 14% dân số, công tác
tuyển quân luôn đạt và vượt kế hoạch; tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững.
Về công tác xây dựng
Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể: Tháng 9/1981, sau khi bàn giao một số tổ chức
đảng về thị xã Đông Hà và huyện Hướng Hóa, Đảng bộ Bến Hải còn lại 97 tổ chức
cơ sở đảng. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã tiến hành củng cố, kiện toàn lại một
bước đối với một số tổ chức cơ sở đảng, kịp thời giải quyết các tổ chức đảng
yếu kém, xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh[45]. Bộ máy chính quyền từ huyện đến cơ sở
được tổ chức, sắp xếp theo hướng tinh gọn. Hoạt động của Mặt trận và các đoàn
thể từng bước được củng cố, kiện toàn về tổ chức, động viên được sức mạnh của
toàn dân. Quyền làm chủ của Nhân dân từng bước được phát huy, hoạt động của các
đoàn thể quần chúng ngày càng phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu[46].
Bên cạnh những kết quả
đã đạt được, tốc độ phát triển kinh tế giai đoạn từ 1981 - 1985 vẫn còn chậm,
chưa đều, chưa mạnh. Tiềm năng, thế mạnh chưa được đầu tư khai thác hợp lý và
hiệu quả. Cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Văn hóa xã hội phát triển chưa đồng đều,
tệ nạn xã hội còn phổ biến, tỷ lệ tăng dân số còn cao... Đời sống Nhân dân còn
nhiều khó khăn.
2. Đảng bộ Bến Hải lãnh đạo nhân dân tiến
hành công cuộc đổi mới (1986 - 1989)
Để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm,
đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng
12/1986) của Đảng đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng của Đảng và dân tộc về
đường lối đổi mới kinh tế, chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Từ ngày 04-06/9/1986, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bến Hải lần thứ IV được
tiến hành[47]. Trên cơ sở đánh giá tình hình, Đại hội
đã đề ra giải pháp: “tiếp tục sắp xếp
lại cơ cấu nền kinh tế theo hướng thực hiện 3 chương trình, mục tiêu, đặc biệt
là chương tình lương thực – thực phẩm, chuyển mạnh nền kinh tế sang sản xuất
hàng hóa. Thực hiện cơ chế quản lý mới trong tất cả các ngành, các thành phần
kinh tế (kinh tế quốc doanh, tập thể, cá thể), tiến hành sản xuất kinh doanh và
đầu tư có hiệu quả, kiên quyết chống bao cấp, bù lỗ trong sản xuất, thực hành
tiết kiệm…”.
Tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, từ ngày
13-15/4/1989, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ V được tổ chức[48]. Đại hội xác định: “Tiếp tục đổi mới sâu
sắc, toàn diện trên các lĩnh vực nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, khai
thác nhanh và có hiệu quả mọi khả năng hiện có và tiềm tàng trong sản xuất
nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp,
trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp để phục vụ 3 chương trình
kinh tế; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với củng cố quan hệ
sản xuất, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế, bảo đảm ngày càng tốt hơn các nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, giữ vững trật tự an toàn xã
hội”.
Bám sát Nghị quyết Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ huyện Bến Hải lần thứ IV, lần thứ V với tinh thần đổi mới toàn diện,
đồng bộ, Đảng bộ và Nhân dân đã nỗ lực phấn đấu giành được những kết quả quan
trọng trên các lĩnh vực.
Về kinh tế: đã tập trung khắc phục hậu quả cơn bão số 8 (10/1985), đưa
sản xuất nông nghiệp trở lại bình thường. Thực hiện Nghị quyết 10, ngày
5/4/1988 về “đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp” của Bộ Chính trị (bổ
sung, hoàn thiện Chỉ thị 100 năm 1981), Huyện ủy đã ra Nghị quyết số 05
(27/4/1988). Đến cuối năm 1989, có 100% hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đã thực
hiện cách khoán mới. Kinh tế nông nghiệp đã có bước phát triển toàn diện,
chuyển dần theo cơ chế mới, đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thâm
canh tăng năng suất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, sản xuất hàng hóa
nông sản, thực phẩm, góp phần ổn định đời sống của Nhân dân, tạo tiền đề vững
chắc cho những năm tiếp theo. Từ chỗ lương thực những năm trước còn thiếu hụt
đến năm 1989 đã có lương thực dự trữ và lương thực hàng hóa. Các hợp tác xã đã
khôi phục lại tàu thuyền, sắm mới ngư lưới cụ, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế ngư nghiệp, thực hiện khoán đấu thầu tư liệu sản xuất[49]. Chủ trương phát triển công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp phải chuyển mạnh vào phục vụ 3 chương trình kinh tế, từng
bước thích ứng với cơ chế thị trường[50]. Có thể nói, nền kinh tế của huyện giai
đoạn này có bước phát triển, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp, làm tiền
đề cho bước phát triển tiếp theo, mở ra hướng làm ăn mới.
Về
văn hóa – xã hội: huyện chủ trương tập trung phát triển kinh tế gắn liền
với giải quyết tốt những vấn đề văn hóa – xã hội, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa. Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng nâng cao
về chất lượng. Giáo dụcđào tạo có những chuyển biến mạnh mẽ, chú trọng nâng cao
chất lượng giáo dục các cấp học. Công tác y tế đạt được 2 mục tiêu chủ yếu:
Chăm lo tốt sức khỏe cho Nhân dân và không ngừng nâng cao chất lượng mọi mặt
công tác y tế. Các chính sách xã hội được triển khai thực hiện hiệu quả, với
phương châm giải quyết công ăn việc làm gắn với việc tổ chức lại sản xuất, điều
phối dân cư, xây dựng vùng kinh tế mới; tổ chức thực hiện cuộc vận động định
canh, định cư ở các xã miền núi đã mang lại kết quả; ở miền biển, huyện chỉ đạo
phát triển các tổ hợp chế biến hải sản, làm dịch vụ… từng bước xóa đói giảm
nghèo cho Nhân dân các vùng bãi ngang của huyện. Từ tháng 10-1988, Đảng bộ chủ
trương đưa phần mộ của các bậc lão thành cách mạng vào nghĩa trang liệt sĩ
huyện để Nhân dân có điều kiện thăm viếng.
Về quốc phòng – an ninh: các cấp ủy Đảng,
chính quyền đã tập trung củng cố, xây dựng lực lượng về mọi mặt, tăng cường lực
lượng quân sự địa phương, giữ vững an ninh chính trị, trật tự toàn xã hội, kết
hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế với củng cố sức mạnh quốc phòng - an ninh,
gắn nghĩa vụ lao động với nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Cùng với việc quan tâm xây
dựng các cụm an toàn làm chủ, các cấp, các ngành từng bước phát huy vai trò làm
chủ của Nhân dân trong việc bảo vệ an ninh, trật tự.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV đã chỉ rõ:
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ… Xây dựng Đảng bộ huyện
vững mạnh trên cơ sở xây dựng các đảng bộ, chi bộ cơ sở vững mạnh, có năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu cao, hoàn thành các mục tiêu kinh tế-xã hội, an
ninh-quốc phòng. Do đó, các cấp ủy Đảng đã coi trọng đúng mức công tác xây dựng
Đảng trên cả 3 mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bên cạnh triển khai học tập,
quán triệt Nghị quyết của Đảng các cấp, huyện đã mở nhiều lớp bồi dưỡng lý luận
tại trường Đảng huyện, gửi hàng trăm cán bộ, đảng viên đi học lý luận chính trị
ở các trường Đảng của tỉnh, Trung ương[51]. Công tác kiểm tra, giữ gìn kỷ luật của Đảng được giữ
vững, việc giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo, thi hành kỷ luật trong Đảng
được tiến hành kịp thời[52].
Công
tác xây dựng chính quyền được củng cố, kiện toàn từ huyện đến cơ sở theo hướng
đổi mới. Nhờ đó, việc chấp hành và thể chế hóa các nghị quyết Đảng các cấp từng
bước thực hiện có hiệu quả. Đã thực hiện việc tinh giản với phòng, ban cấp
huyện theo Thông báo số 46 của Ban Bí thư Trung ương (khóa VI), giảm bớt cấp
phó, tăng cường làm việc theo chế độ chuyên viên; sắp xếp, thay thế 50% số thủ
trưởng các phòng, ban, giám đốc các công ty, xí nghiệp.
Vai trò vị trí của mặt trận và các đoàn thể từ huyện đến
cơ sở ngày càng được khẳng định, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, khối đại
đoàn kết toàn dân được củng cố. Mặt trận Tổ quốc huyện đã phát động nhiều phong
trào hành động cách mạng liên tục, hướng trọng tâm vào thực hiện 3 chương trình
kinh tế, các đoàn thể quần chúng bám sát vào nhiệm vụ chính trị của mình và
Đảng bộ huyện phát động các phong trào[53]. Qua phong trào đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân điển
hình.
Những thành tựu đạt được trong những năm 1977 - 1989 thể
hiện sự phấn đấu nỗ lực của Đảng bộ và Nhân dân toàn huyện theo tinh thần
đổi mới của Đảng đã đề ra, tạo tiền đề vững chắc trong tiến trình phát triển đi
lên của quê hương. Nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới thì chỉ là những
thành tựu bước đầu, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh. Dù còn nhiều tồn
tại, hạn chế nhưng những thành quả mà Đảng bộ và Nhân dân huyện Bến Hải giành
được trong những năm hợp nhất 1977-1989, nhất là những năm thực hiện công cuộc
đổi mới có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở, tiền đề cho sự phát triển kinh tế -
xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh, xây dựng hệ thống trị trong những năm
tiếp theo của huyện.
Bài 6
ĐẢNG BỘ GIO LINH LÃNH
ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA (1990 – 2020)
I. ĐẢNG BỘ GIO LINH LÃNH
ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1990-2000)
Sau 13 năm sáp nhập,
ngày 23/3/1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra Quyết định số
91/HĐBT, chia huyện Bến Hải thành huyện Gio Linh[54] và Vĩnh Linh. Ngày 04/4/1990, Tỉnh
ủy ra Quyết định số 116 về việc thành lập Đảng bộ Gio Linh gồm 16 đồng chí và
chỉ định Ban Thường vụ lâm thời gồm 5 đồng chí, đồng chí Nguyễn Viết Nên giữ
chức vụ Bí thư Huyện ủy lâm thời. Sau một thời gian khẩn trương sắp xếp, kiện
toàn lại tổ chức bộ máy, ngày 01/5/1990, cơ quan Đảng, chính quyền,Mặt trận và
các ban, ngành, đoàn thể của huyện chính thức đi vào hoạt động.
Huyện Gio Linh được lập
lại phù hợp với yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ thời kỳ mới, đáp ứng tâm tư,
nguyện vọng của Nhân dân, tạo niềm phấn khởi, khích lệ tinh thần hăng hái thi
đua vượt khó để xây dựng quê hương. Song cũng gặp không ít khó khăn, thử thách
như cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đội ngũ cán bộ vừa thiếu vừa không đồng bộ,
đời sống Nhân dân còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và
các nước Đông Âu đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân có tư
tưởng bi quan, dao động, giảm sút ý chí chiến đấu, giảm niềm tin vào Đảng, vào
chế độ… Trước tình hình đó, ngày 10/4/1990, BCH Đảng bộ huyện đã họp và ra Nghị
quyết số 01 về tình hình và nhiệm vụ trước mắt, nhấn mạnh: “Toàn Đảng bộ và
Nhân dân thấy hết khó khăn, thuận lợi, xác định đúng phương hướng, nhiệm vụ,
xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định và tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, quyết tâm khắc
phục tư tưởng, trông chờ, ỷ lại, kiên quyết chống tư tưởng cục bộ, địa phương
và dao động trước những khó khăn. Động viên toàn Đảng bộ và Nhân dân nỗ lực
phấn đấu… tất cả vì quê hương Gio Linh ấm no và giàu đẹp”.
Thực hiện Nghị quyết 01,
chỉ sau một thời gian ngắn, tổ chức bộ máy của huyện đã được sắp xếp ổn định cơ
bản đi vào nền nếp, giải quyết được một số vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách,
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, văn hóa - xã hội tiếp tục phát triển,
quốc phòng - an ninh được củng cố, tăng cường.
Từ ngày 9-11/9/1991, Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện Gio Linh lần thứ XI được tiến hành[55]. Đại hội đã đề ra phương hướng, mục tiêu
và nhiệm vụ của nhiệm kỳ 1991-1995 là “Phấn đấu đến năm 1995 vượt qua khó khăn,
giữ vững ổn định, đảm bảo nhu cầu lương thực tại chỗ cho xã hội, khắc phục tình
trạng thiếu đói thường xuyêntrong thời kỳ giáp hạt ở một số vùng. Từng bước
giải quyết việc ăn, ở, đi lại cho Nhân dân, đảm bảo việc làm cho người lao
động, gắn với việc giảm mạnh gia tăng dân số. Giải quyết tốt các vấn đề chính
sách xã hội cho các đối tượng. Đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa, giáo dục, nâng cao
trình độ dân trí, tăng cường quốc phòng – an ninh, đảm bảo an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã xã hội”.
Đầu năm 1992, theo Quyết
định của Chính phủ, Công ty cao su Quảng Trị chuyển giao 6 xã phía tây[56] về cho huyện quản lý, đưa tổng số
đơn vị hành chính của huyện lên 19 xã. Ngày 24/4/1992, Thường vụ Tỉnh ủy ra
Quyết định chuyển giao số đảng viên ngoài biên chế thuộc các xã miền tây mà
Đảng bộ Công ty cao su quản lý về Đảng bộ huyện. Ngày 29/4/1992, Thường vụ
Huyện ủy quyết định thành lập thêm 1 Đảng bộ và 2 chi bộ cơ sở, đưa tổng số tổ
chức Đảng trực thuộc lên 43 đơn vị với 1.400 đảng viên. Ngày 01/8/1994, Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định thành lập Thị trấn Gio Linh[57]. Sự bổ sung về đơn vị hành chính và tổ
chức Đảng nói trên đã tạo những điều kiện mới cho quá trình phát triển đi lên
của huyện.
Sau 5 năm, với tinh thần
quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, Đảng bộ đã lãnh đạo Nhân dân vượt qua
những khó khăn, thử thách và giành được những kết quả có ý nghĩa trên nhiều
lĩnh vực, hoàn thành cơ bản các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện lần thứ XI đề ra.
Ngày 28/2/1996, Đại hội
đại biểu Đảng bộ huyện Gio Linh lần thứ XII được tiến hành[58]. Đại hội đã đánh giá đúng tình hình thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XI đề
ra và thống nhất đề ra phương hướng, mục tiêu cho nhiệm kỳ 1996-2000 là “Tập
trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, khai thác triệt để
các tiềm năng, thế mạnh… Phấn đấu đến năm 2020 đảm bảo nhu cầu lương thực cho
toàn xã hội, xóa bỏ tình trạng thiếu đói, giải quyết cơ bản việc làm cho người
lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, nâng cao tích
lũy nội bộ, từng bước vượt qua tình trạng của huyện nghèo, kém phát triển, vươn
lên thu hẹp khoảng cách so với các huyện khác, giữ vững ổn định chính trị, trật
tự an toàn xã hội”.
Thực hiện Nghị quyết lần
thứ XII, toàn huyện đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp, kinh tế
chuyển biến mạnh mẽ[59]. Các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp phát triển khá[60], góp phần giải quyết việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động. Cơ sở hạ tầng được ưu tiên đầu tư[61]. Đến cuối năm 1999, có 19/20 xã, thị
trấn đã có mạng lưới điện quốc gia. Hoạt động của các ngành thương mại, dịch
vụ, tài chính ngân hàng có những chuyển biến tích cực[62]. Quan tâm phát triển kinh tế nhiều thành
phần và đổi mới cơ chế quản lý; kinh tế tư nhân được coi trọng, đã thành lập
được 5 doanh nghiệp tư nhân, kinh tế hộ phát triển.
Văn
hóa-xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống văn hóa tinh thần của Nhân dân tiếp tục
được nâng cao. Công tác chăm lo sức khỏe của Nhân dân có những bước chuyển biến
tích cực. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 2,02% năm 1995 xuống còn 1,6% năm
2000. Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa được hưởng ứng tích
cực, nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội bước đầu được các địa
phương, gia đình thực hiện. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo có nhiều chuyển biến,
nhất là phong trào xã hội hóa giáo dục phát triển khá rộng rãi. Việc thực hiện
các chính sách xã hội được đẩy mạnh, mang lại hiệu quả cao, giải quyết kịp thời
chế độ cho các đối tượng chính sách, phong trào đền ơn đáp nghĩa được chú
trọng.
Nhận thức rõ tình hình
phức tạp của thế giới, trong nước cũng như vị trí của huyện là địa bàn phòng
thủ trọng yếu của tỉnh và quân khu IV, trong những năm 1996-2000, các cấp ủy
Đảng và chính quyền đã coi trọng việc giáo dục ý thức quốc phòng - an ninh nhằm
nâng cao tinh thần cảnh giác trước chiến lược “diễn biến hòa hình” của các thế
lực thù địch, tập trung xây dựng khu vực phòng thủ của huyện, chú trọng công
tác xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh
Nhân dân, xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Công tác bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được quan tâm đúng mức.
Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được quan tâm. Công tác chính trị, tư tưởng từng bước được đổi mới.
Cùng với hệ thống trường Đảng của tỉnh, Trung ương, sau khi được thành lập
(18/1/1997) theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị
huyện đã có nhiều cố gắng trong việc bồi dưỡng lý luận chính trị, nghiệp vụ
công tác Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên từ huyện đến cơ sở. Công tác tổ chức, cán bộ và đảng viên được quan tâm[63]. Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành
kỷ luật trong Đảng thực hiện nghiêm túc. Ngày 19/06/1997, Ban Dân vận Huyện ủy
được thành lập và đi vào hoạt động, nhờ vậy, công tác dân vận từng bước đi vào
chiều sâu.
Huyện đã tập trung củng
cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, triển khai cải cách thủ tục hành chính. Chức năng
quyết định, giám sát, kiểm tra của HĐND từ huyện về cơ sở được tăng cường. Công
tác tiếp dân, tiếp xúc cử tri được coi trọng. Nhân dân ngày càng phấn khởi, tin
tưởng vào cơ quan quyền lực đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của mình. Năng lực quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện của UBND từ huyện
đến cơ sở có nhiều chuyển biến.
Mặt trận và các đoàn thể
được củng cố và từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khối đại
đoàn kết toàn dân được tăng cường.
Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện giai đoạn này còn chậm, năng suất
lao động thấp. Văn hóa - xã hội phát triển còn
chậm. Đời sống của một bộ phận Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Một số tổ chức
cơ sở Đảng còn yếu, chưa thể hiện vai trò hạt nhân ở cơ sở, tình trạng mất đoàn
kết còn diễn ra ở một số nơi.
Phát huy những thành tựu
đã đạt được, thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong nhiệm kỳ thực
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XII làm cơ sở cho Đảng bộ huyện đề
ra mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, các chỉ tiêu chủ yếu, nhiệm vụ, giải
pháp tập trung lãnh đạo trong nhiệm kỳ tới.
Gio Linh sau 10 lập lại
Huyện, thực hiện đường lối đổi mới đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để
tạo dựng tiền đề quan trọng cho bước phát triển tiếp theo.
II. ĐẢNG BỘ HUYỆN GIO
LINH LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA, HỘI NHẬP QUỐC TẾ (2000-2020)
1. Giai đoạn 2000-2010
Là thời điểm có ý nghĩa
hết sức quan trọng, bước sang thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi sâu sắc.
Quá trình hình thành trật tự thế giới mới sẽ nảy sinh những diễn biến
phức tạp về chính trị, quân sự tại nhiều khu vực và nhiều nước. Khoa học công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục có những bước
phát triển nhảy vọt. Các nước đang phát triển có cơ hội thu hẹp khoảng cách so
với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình. Tuy vậy, đất nước ta đứng
trước nhiều thử thách không nhỏ. Bốn nguy cơ mà Đảng ta nêu ra vẫn còn hiện hữu
“Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức và tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; những biểu hiện xa rời mục tiêu CNXH, tự
diễn biến, tự chuyển hóa vẫn còn tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên;
các thế lực thù địch tăng cường chống phá, thực hiện diễn biến hòa bình, nhằm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước
những khó khăn, thách thức mới; niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và
Nhân dân có mặt giảm sút”.
Trước bối cảnh đó, dưới
sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Trị, Đảng bộ huyện Gio Linh khắc phục khó khăn,
phát huy nội lực, tranh thủ mọi nguồn lực để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
các cấp.
Ngày 16-18/11/2000, Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2000-2005) được triệu tập[64]. Đại hội xác
định “Kinh tế nông nghiệp vẫn là trọng tâm, có vị trí quan trọng; tập trung
phát triển kinh tế gắn với đặc điểm của từng tiểu vùng”. BCH Đảng bộ huyện khóa
XIII đã ban hành Nghị quyết số 03, 04 về phát triển kinh tế - xã hội vùng
gò đồi, miền núi; miền biển, vùng cát; đẩy nhanh việc giao đất, giao rừng cho hộ gia đình. Tiếp tục đầu
tư phát triển kinh tế vùng biển, được xem là mũi nhọn của nền kinh tế. Phát
triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, sớm hình thành các cụm công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở trung tâm huyện lỵ, cảng Cửa Việt. Mở rộng mạng
lưới và đa dạng hóa các loại hình thương mại dịch vụ, đặc biệt chú ý phát triển
dịch vụ ở bãi tắm, cảng Cửa Việt, trung tâm huyện lỵ và các điểm tham quan du
lịch khác.
Về văn hóa - xã hội:
quán triệt quan điểm của Đảng về chiến lược con người, tăng trưởng kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ xã hội, Đảng bộ huyện đã xác định các hoạt động văn hóa xã
hội là vì sự phát triển toàn diện con người, nâng cao một bước đời sống văn hóa
tinh thần của Nhân dân, trong đó, cần quan tâm đến đối tượng chính sách, người
nghèo, đồng bào ở vùng khó khăn.
Huyện đã tiếp tục củng
cố, tăng cường, nâng cao chất lượng quốc phòng - an ninh, đảm bảo giữ vững ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục quán triệt đầy đủ hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới. Củng cố kiện
toàn, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của khu vực phòng thủ, cụm tuyến
an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ an ninh quốc gia, làm
thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Đẩy mạnh việc thực hiện
Nghị quyết TW6 (khóa VIII) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thường
xuyên quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Huyện đã tổ chức kiện toàn, củng cố các ban
Đảng, các phòng ban chức năng của Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết TW7 (khóa
VIII) về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Quan tâm công tác tạo nguồn,
đào tạo cán bộ, khắc phục sự hẫng hụt, thiếu đồng bộ của đội ngũ cán bộ. Đẩy
mạnh công tác phát triển đảng viên, xóa được những “thôn, bản, cơ quan trắng”
đảng viên.
Để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc xây dựng quê
hương trong thời kỳ mới, từ ngày 11-12/10/2005, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2005-2010) được tổ chức[65]. Đại hội xác định nhiệm vụ đầu
tiên cơ bản, cấp bách là phải tiến hành điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội của huyện, các cụm kinh tế kỹ thuật ở các địa bàn
trung tâm và xây dựng quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực đến năm 2010.
Về kinh tế cần tập trung
phát triển nông
nghiệp toàn diện. Đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hoàn
thành cơ bản công tác dồn điền đổi thửa, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong sản
xuất nông nghiệp. Tiếp tục đầu tư và khai thác có hiệu quả tiềm năng kinh tế
vùng biển. Chủ động, đón đầu để khai thác tốt lợi thế hai vùng kinh tế động lực
của tỉnh (Cửa Việt, Cửa Tùng) trong tương lai. Điều chỉnh, bổ sung đề án phát
triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đến năm 2010. Tạo điều kiện thuận lợi
để thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Quán Ngang, Cửa Việt, trung tâm huyện lỵ.
Tập trung huy động mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là xây
dựng mạng lưới điện cho các điểm dân cư chưa có điện[66]; tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố
hóa, cao tầng hóa trường học; sửa chữa, nâng cấp các trạm y tế đạt chuẩn theo
quy định.
Về
văn hóa – xã hội: tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung phát triển GD&ĐT
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe
Nhân dân, phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên. Nâng cao chất lượng cuộc
vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Giải quyết đầy đủ, kịp
thời chế độ chính sách cho các đối tượng. Thực hiện có hiệu quả chương trình
xóa đói, giảm nghèo. Phấn đấu đến năm 2009 xóa nhà dột nát cho hộ nghèo.
Tăng
cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh Nhân dân, giữ vững ổn định chính trị
và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tăng
cường công tác xây dựng Đảng, quán triệt sâu sắc phương châm “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt”, đặt nhiệm vụ xây dựng Đảng lên ngang tầm với yêu cầu
và nhiệm vụ mới. Nâng cao vai trò điều hành, quản lý của các cấp chính quyền,
hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể từ huyện đến cơ sở.
Dưới
ánh sáng của các Nghị quyết, Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh đã tranh thủ thời cơ,
thuân lợi, khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu hoàn thành cơ bản các mục tiêu,
nhiệm vụ đề ra, tạo chuyển biến khá đồng bộ và rõ nét trên tất cả các lĩnh vực:
- Về Kinh tế: Giá trị sản xuất tăng bình quân hằng năm đạt 14,4%
(NQ 11-12%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng[67]. Thu nhập bình quân đầu người từ 4,2
triệu đồng (năm 2000) tăng lên 9,5 triệu đồng (năm 2010). Tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm 10,12% (NQ 7-8%). Công tác đinh canh, định cư ở hai xã miền
núi thực hiện đúng quy hoạch. Phong trào cải tạo vườn tạp, trang trại nông –
lâm kết hợp ở vùng gò đồi, miền núi và việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi mang lại hiệu quả tích cực. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp chú trọng phát triển mạnh các ngành nghề có lợi thế, mạng lưới
thương mại - dịch vụ, hệ thống chợ nông thôn phát triển
rộng khắp, hàng hóa đa dạng, lưu thông thông thoáng, tiện lợi. Thu chi ngân
sách có nhiều chuyển biến tích cực[68]. Hoạt động ngân hàng tiếp tục được đổi
mới, Ngân hàng Chính sách xã hội huyện được thành lập tích cực hỗ trợ công tác giảm
nghèo, giải quyết việc làm.
Trong giai đoạn này, vấn
đề xây dựng sơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội được đặc biệt coi trọng, là điều
kiện, tiền đề để thúc đẩy địa phương phát triển toàn diện. Với phương châm “Nhà
nước và Nhân dân cùng làm”, vừa tranh thủ và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư của
Trung ương, của các tổ chức quốc tế, các chương trình, dự án[69] đã sửa chữa, nâng cấp và xây dựng
mới hệ thống giao thông nội huyện, liên xã. Mạng lưới điện tiếp tục mở rộng và
nâng cấp[70]. Công tác giải phóng mặt bằng để xây
dựng và hoàn thành các công trình trọng điểm được chú trọng[71], mở ra khả năng phát triển kinh tế - xã
hội của huyện trong những năm tới[72].
-
Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống văn hóa tinh thần của Nhân dân được
cải thiện và phong phú. Giáo dục - đào tạo phát triển toàn diện và khá vững
chắc[73]. Hoạt động VHTT, TDTT từng bước đi vào
chiều sâu. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được tiếp tục
đẩy mạnh[74]. Công tác chăm sóc sức khỏe Nhân dân,
DS-KHHGĐ được triển khai thực hiện ngày càng hiệu quả. Trong 10 năm (2000-2010)
không có dịch bệnh lớn, nguy hiểm xảy ra trên địa bàn. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị y tế từ huyện đến cơ sở cơ bản đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh[75]. Các chiến dịch truyền thông dân số được
triển khai sâu rộng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa[76]. Chương trình giải quyết việc làm, xuất
khẩu lao động và tạo nghề bước đầu mang lại hiệu quả, góp phần nâng cao thu
nhập cho Nhân dân[77].
- Quốc phòng - an ninh
tiếp tục được tăng cường. Nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân
dân được củng cố vững chắc, đảm bảo ổn định chính trị, giữ vững trật tự an toàn
xã hội.
- Công tác xây dựng
Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể được chú trọng. Công tác chính trị
tư tưởng được các cấp ủy Đảng chủ động triển khai thực hiện tích cực. Công tác
sưu tầm, biên soạn lịch sử các đơn vị, địa phương được tiến hành, đã hoàn thành
việc biên soạn và xuất bản Lịch sử Đảng bộ huyện tập II (giai đoạn 1975-2000)
vào năm 2005. Chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên và từng bước trẻ hóa,
chuẩn hóa. Tiến hành đổi mới tổ chức bộ máy của cơ quan Đảng, chính quyền, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội theo Nghị quyết TW4, TW5 (khóa X); sáp
nhập một số phòng ban của huyện, chia tách, thành lập các chi bộ cơ sở. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và công tác
phát triển đảng viên luôn được quan tâm[78]. Công tác kiểm tra, giám sát được tiến
hành chủ động, thường xuyên hơn[79], góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của các tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Công tác dân vận chuyển biến tích cực, hệ thống tổ chức dân vận cấp ủy từ huyện
đến cơ sở thường xuyên được kiện toàn, củng cố.
Tuy nhiên, từ 2000-2010
nền kinh tế của huyện phát triển chưa mạnh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm,
thu nhập bình quân đầu người, thu ngân sách trên địa bàn còn thấp, chưa khai
thác hết các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Chất lượng văn hóa, giáo dục, y
tế… chưa cao. Công tác giáo dục quốc phòng - an ninh có mặt chưa sâu, phong trào quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân dân ở một số nơi chưa mạnh. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức Đảng còn yếu, còn vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ. Công tác cán bộ, phát triển đảng viên gặp khó khăn. Hoạt
động giám sát của HĐND một số nơi còn hạn chế, vai trò trách nhiệm của một số
đại biểu HĐND chưa phát huy. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và
các đoàn thể chậm đổi mới.
Bắt
tay vào xây dựng, kiến thiết quê hương trong nhiều khó khăn, thách thức nhưng
những thành quả mà Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh giành được trong 10 năm
(2000-2010) là kết quả của sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi, sự cống hiến cả mồ
hôi, xương máu của Đảng bộ và Nhân dân toàn huyện. Những thành quả đó đã khẳng
định sự hồi sinh mãnh liệt, một sức mạnh tiềm tàng của một vùng quê anh dũng,
kiên cường, dẫu trải qua bao biến cố thăng trầm lịch sử vẫn vững vàng vượt qua
thử thách để vươn lên và không ngừng phát triển. Như đồng chí Nguyễn Viết Nên –
nguyên Bí thư Tỉnh Ủy Quảng Trị đã đánh giá: “Gio Linh còn nghèo so với các
vùng đất khác, nhưng có những kỳ tích mà ít nơi nào có. Đó là sau chiến tranh,
Đảng bộ và nhân dân Gio Linh đã biến vành đai điện tử Mac-Namara thành rừng cây
công nghiệp; biến khu tập trung (của Mỹ-Ngụy) Quán Ngang thành khu công nghiệp;
biến vùng cát trắng đêm nhức mắt thành khu đô thị ven biển…”.
2. Giai đoạn 2010-2020
Bước
vào thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn 2010-2020 trong điều kiện nền kinh
tế của huyện đang có bước phát triển. Từng là “Vành đai trắng”, “ bời bời cỏ lút đồng hoang” thì nay Gio
Linh đã chuyển mình, hồi sinh và phát triển từng ngày. Với
vị trí địa lý thuận lợi được Trung ương, Tỉnh đầu tư xây dựng những công trình
trọng điểm, các chương trình, đề án của huyện đã và đang được thực hiện, đạt
được những kết quả quan trọng, có khả năng phát triển mạnh trong thời gian tới.
Tiềm năng, lợi thế của các tiểu vùng được xác định và đầu tư khai thác có hiệu
quả. Khu du lịch, dịch vụ Cửa Việt, khu công nghiệp Quán Ngang đang mở ra nhiều
triển vọng về thu hút đầu tư. Tuy nhiên, Gio Linh cũng còn không ít những khó
khăn, thách thức từ nội tại nền kinh tế, cùng với tác động của các yếu tố thiên
tai, môi trường, dịch bệnh diễn biến phức tạp khó lường đã ảnh hưởng trực tiếp
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh giai
đoạn 2010-2020 có ý nghĩa hết sức quan trọng quyết định đến sự phát triển toàn
diện của địa phương trong thời kỳ mới. Trước bối cảnh đó, ngày 29/7/2010, Đại
hội Đảng bộ huyện Gio Linh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010-2015 được tiến hành[80].
Đại
hội xác định rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội là: Phát triển nông nghiệp
toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết
số 03, 04 của Huyện ủy (khóa XIII) về phát triển kinh tế vùng gò đồi miền núi,
vùng cát, miền biển. Tập trung triển khai thực hiện Chương trình hành động số
15 của Huyện ủy (khóa XIV) về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”, xây dựng
nông thôn mới theo quy định. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 06 của
Huyện ủy (Khóa XIV) về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ưu tiên
khai thác cụm công nghiệp làng nghề vùng Đông. Tiếp tục tổ chức thực hiện Nghị
quyết 04 của Huyện ủy (khóa XIV) về phát triển thương mại – dịch vụ, du lịch.
Mở rộng mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình thương mại, dịch vụ trên các tuyến
đường Cửa Việt - Cửa Tùng, đường Hồ Chí Minh, các thị trấn, nghĩa trang liệt sĩ
Trường Sơn, cụm di tích đôi bờ Hiền Lương, Dốc Miếu. Xây dựng Cửa Việt sớm trở
thành trung tâm thương mại – dịch vụ, du lịch. Quy hoạch xây dựng làng sinh
thái ven biển kết hợp với phát triển các dịch vụ tắm biển, tham quan, du lịch,
nghỉ dưỡng. Hoàn thành quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2020 và quy
hoạch chi tiết ngành, lĩnh vực gắn với công tác quản lý quy hoạch.
Về
văn hóa – xã hội: chăm lo phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng các hoạt
động VH-VN, TDTT. Chú trọng, nâng cao chất lượng đơn vị văn hóa, gia đình văn
hóa, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, gắn với
xây dựng mô hình nông thôn mới. Giữ vững phổ cập tiểu học, phổ cập THCS và phổ
cập mẫu giáo 5 tuổi. Đẩy mạnh phong trào xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội
học tập và chăm sóc sức khỏe Nhân dân, nâng cao chất lượng dân số. Thường xuyên
quan tâm giải quyết đầy đủ, kịp thời các chế độ đối với các đối tượng chính
sách, đảm bảo 100% gia đình chính sách, người có công có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình của người dân.
Tăng
cường hơn nữa công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, phong trào toàn dân bảo vệ
an ninh Tổ quốc, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong
nhiệm vụ an ninh – quốc phòng.
Công
tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể được xem là nhiệm vụ
hàng đầu. Tiếp tục triển khai sâu rộng và thực hiện có hiệu quả cuộc vận
động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ
chức bộ máy Đảng và cả hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết TW4 (khóa
X). Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW6 (khóa X) về ‘Nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”,
chú trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo tinh thần Chỉ thị số
10-CT/TW của BBT. Phấn đấu đến năm 2015, 100% thôn, bản, khu phố, cơ quan có tổ
chức Đảng. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND, UBND, trước hết
là cơ quan thường trực. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục
hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức; khắc
phục tệ quan liêu, sách nhiễu, gây phiền hà cho Nhân dân. Đổi mới mạnh mẽ nội
dung, phương thức hoạt động theo hướng sâu sát Nhân dân, nắm bắt kịp thời tâm
tư nguyện vọng của Nhân dân.
Tiếp tục lãnh đạo công
cuộc xây dựng quê hương trong thời kỳ mới, trong ba ngày 8, 9, 10/7/2015, Đại
hội Đảng bộ huyện Gio Linh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 được tổ chức[81]. Đại hội đã xác định mục tiêu tổng quát,
chỉ tiêu cụ thể và đã ban hành 2 chương trình, 08 đề án trọng tâm trên tất cả
các lĩnh vực.
Về
kinh tế: Đẩy mạnh thực hiện đề án tái cơ cấu nông nghiệp; huy động các nguồn
lực để đầu tư khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế 3 vùng kinh tế của huyện[82]. Đẩy
mạnh thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Thực hiện Đề án phát triển
đô thị, triển khai thực hiện và quản lý chặt chẽ quy hoạch chi
tiết thị trấn Gio Linh, Cửa Việt; tăng cường đầu tư xây dựng hoàn thiện kết cấu
hạ tầng đô thị, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Chú
trọng phát triển công nghiệp - xây dựng gắn với bảo vệ môi trường. Tập trung
xây dựng hoàn thành cụm làng nghề thị trấn Gio Linh, cụm công nghiệp chế biến
thủy sản tại Gio Việt để tạo bước đột phá về phát triển các ngành nghề. Ban
hành Đề án phát triển thương
mại - dịch vụ - du lịch, ưu tiên trên các tuyến trọng điểm ở đường Hồ Chí Minh
- NTLS Trường Sơn, cụm di tích đôi bờ Hiền Lương-Dốc Miếu, dọc tuyến biển Cửa
Việt - Cửa Tùng và thị trấn Gio Linh.
Về
văn hóa - xã hội: tập trung thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 33-NQ/TW của
BCH TW Đảng (khóa XI) và chương trình hành động của Tỉnh ủy, Huyện ủy về “Xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Xây dựng
và triển khai đề án phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao đến năm 2025. Phát
triển giáo dục – đào tạo toàn diện, vững chắc, gắn với việc triển khai thực
hiện Đề án phát triển nguồn
nhân lực, Đề án tạo việc làm và xuất khẩu lao động ở địa phương. Nâng
cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác DS-KHHGĐ, giảm tỷ lệ sinh
con thứ 3 xuống 10%. Triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu
quốc gia về giảm nghèo bền vững và chính sách xã hội; quan tâm các vấn đề đất
ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc ở 2 xã Linh Thượng, Vĩnh
Trường (nay là xã Linh Trường).
Tăng
cường quốc phòng – an ninh, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội. Đẩy
mạnh việc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết TW8 (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới”. Tập trung lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng vững chắc khu
vực phòng thủ huyện. Tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ
Chính trị về “tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình
hình mới”. Nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” theo tinh
thần Chỉ thị 09 của Ban Bí thư.
Đẩy
mạnh công tác chính trị, tư tưởng, kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm
sai trái, âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Tiến hành tái bản lịch sử Đảng bộ huyện giai đoạn 1930-1975. Tiếp tục triển
khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết
TW4 (khóa XI) “Một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đổi mới công tác tổ chức, cán
bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên; ban hành Đề án tạo nguồn cán bộ nữ, cán bộ trẻ
giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2025.
Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của chính quyền các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng hoạt
động của cơ chế một cửa, tinh giản biên chế, triển khai thực hiện Đề án vị trí
việc làm, Đề
án cải cách hành chính, Đề án thi chọn chức danh trưởng, phó phòng cấp huyện. Thực hiện tốt quy chế phối hợp hoạt động giữa chính quyền
với Mặt trận và các đoàn thể.
Đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể; tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và nâng cao chất
lượng các phong trào thi đua, các cuộc vận động. Củng cố, kiện toàn, sắp xếp
lại các tổ chức hội quần chúng.
Nhận
thức sâu sắc thời cơ và thách thức của địa phương, giai đoạn 2010-2020, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân toàn huyện quyết tâm vượt lên khó khăn, tận dụng
mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng,
thế mạnh của địa phương để phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Nền kinh tế của huyện
tăng trưởng khá[83]. Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp, Chương trình phát triển kinh tế vùng biển, vùng gò đồi, miền núi của
huyện giai đoạn 2016-2020 đã tạo bước chuyển biến về phát triển nông nghiệp
theo hướng bền vững. Các mô hình sản xuất chuyên canh tập trung được mở
rộng về quy mô, đầu tư phát triển các loại cây - con chủ lực có lợi thế theo
hướng mỗi địa phương một sản phẩm. Nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ,
ứng dụng công nghệ và liên kết hợp tác với doanh nghiệp, từng bước hình thành
chuỗi giá trị sản phẩm[84]. Kinh tế vườn, vườn đồi tiếp tục được
quan tâm đầu tư, phát triển. Chăn nuôi phát triển theo hướng tập trung, công
nghiệp, bán công nghiệp hướng đến an toàn sinh học; tỷ lệ Zê bu hóa đàn bò, nạc
hóa đàn lợn tăng lên[85].
Khắc phục sự cố môi
trường biển do Công ty Fomosa gây ra, huyện đã ban hành nhiều chủ trương, giải
pháp kịp thời chuyển đổi sinh kế cho ngư dân, đồng thời thực hiện các chính
sách đầu tư phát triển thuỷ sản theo Nghị định 67 và 89 của Chính phủ, ngư dân
đã mạnh dạn đầu tư đóng mới, nâng cấp tàu thuyền, trang thiết bị đánh bắt hiện
đại, đa dạng hóa ngành nghề khai thác, kịp thời ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ mới phù hợp ngư trường đánh bắt khơi xa góp phần nâng cao năng suất,
sản lượng đánh bắt hải sản và bảo vệ chủ quyền biển đảo[86].
Công nghiêp - TTCN - xây
dựng được đầu tư phát triển.Tích cực phối hợp với tỉnh để mở rộng quy mô,
thu hút đầu tư tại KCN Quán Ngang; triển khai hoàn thành quy hoạch chi tiết cụm
công nghiệp chế biến thủy sản Đông Gio Linh, khu vực thị trấn Cửa Việt với diện
tích 20,0ha. Làm tốt công tác quy hoạch, GPMB, cải thiện môi trường đầu tư để
thu hút các dự án đầu tư phát triển năng lượng sạch[87] và
xây dựng các công trình trọng điểm trên địa bàn[88]. Công
tác quản lý nhà nuớc về xây dựng được tăng cường.
Thương
mại - dịch vụ phát
triển đa dạng với nhiều loại hình, tăng trưởng bình quân hàng năm 9,56%.Kết cấu hạ tầng cơ sở phát triển dịch vụ -
thương mại được quan tâm đầu tư; hệ thống chợ trung tâm, các chợ vùng được đầu
tư xây mới, nâng cấp đưa vào khai thác có hiệu quả. Việc xây dựng nhãn hiệu hàng hóa sản phẩm, chỉ
dẫn địa lý… nâng cao giá trị các mặt hàng nông sản thông qua chế biến, để tăng
sức cạnh tranh và tham gia thị trường trong và ngoài nước được chú trọng[89]. Dịch vụ tắm biển, nghỉ dưỡng ngày càng
phát triển, hàng năm thu hút khoảng 50 ngàn lượt du khách. Đã triển khai quy
hoạch và xây dựng đề án phát triển du lịch cộng đồng giếng cổ Gio An, kết nối
các tour - tuyến “Du lịch tâm linh”, du lịch sinh thái.
Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện hiệu
quả. Đến tháng 6/2020 toàn huyện có 8/15 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 6 xã
so với năm 2015, chiếm tỷ lệ 46,7%. Công tác xây dựng đô thị văn minh được chú
trọng, đã tổ chức đánh giá, rà soát, điều chỉnh quy hoạch thị trấn Gio Linh,
thị trấn Cửa Việt quan tâm đầu tư xây dựng, phấn đấu đạt tiêu chí đô thị loại
V.
Hoạt động VHTT, TDTT và xây dựng văn hóa - con
người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững được chú trọng. Tập trung tuyên truyền và triển khai thực
hiện có hiệu quả NQ số 33 của BCH TW và CTHĐ của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ về xây
dựng và phát triển văn hoá - con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, góp phần quan trọng vào
việc thúc đẩy hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
huyện. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở”
tiếp tục được quan tâm triển khai thực hiện, chất lượng, hiệu quả được nâng lên[90]. Huyện đã tổ chức cuộc thi sáng tác
Logo huyện Gio Linh, với biểu trưng riêng là những điểm nhấn mang tính nhân
văn, lịch sử, địa lý gắn liền với quá trình chuyển mình vươn lên, phát triển
thế mạnh của huyện hướng tới tương lai tươi sáng của mảnh đất và con người Gio
Linh đang hồi sinh sau chiến tranh.
Giáo
dục và đào tạo chuyển biến tích cực. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, hoạt động khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập tiếp tục phát triển sâu rộng, hiệu quả.
Tiến hành sắp xếp, tinh gọn các đơn vị sự nghiệp công lập theo tinh thần Nghị
quyết số 19 của BCH TW Đảng (khóa XII)[91]. Duy
trì vững chắc phổ cập giáo dục ở các cấp học Mầm non, Tiểu học và THCS, có
16/17 xã, thị trấn đạt phổ cập bậc trung học. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe nhân dân, DS-KHHGĐ được nâng lên[92]. Đã thực hiện tốt việc sáp
nhập Trung tâm Y tế huyện. Công tác
giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, xóa đói giảm nghèo và thực hiện các
chế độ chính sách, an sinh xã hội tiếp tục được quan tâm. Tỷ lệ hộ nghèo năm
2020 còn dưới 5%, giảm 9,22% so với năm 2010.
Quốc phòng - an ninh được tăng cường, an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Vai trò lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền và xây dựng lực lượng vũ trang
huyện được vững mạnh về mọi mặt. Công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội đã huy động được sự tham gia tích cực của cả
hệ thống chính trị và các tầng lớp Nhân dân. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc được đẩy mạnh.
Công
tác xây dựng Đảng được quan tâm thực hiện đồng bộ các giải pháp và mang lại
nhiều kết quả trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Công tác
xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao. Triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị
03, Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết TW4 (khoá XI, XII) về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương.
Từ đó, tạo thành đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, có sức lan tỏa trong mọi
lĩnh vực đời sống xã hội. Các cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên “tự soi",
"tự sửa”, kịp thời phát hiện, khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm, tăng
cường đấu tranh ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tựchuyển hóa” trong nội bộ, tạo sự đoàn kết,
thống nhất cao trong Đảng.
Công tác tổ chức, cán
bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên có nhiều đổi mới. Đề án tạo nguồn cán bộ nữ, cán
bộ trẻ đã tạo những chuyển biến tích cực trong quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử
dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ[93]. Việc thành lập, kiện toàn tổ chức Đảng
đối với các xã, thôn, khu phố và các cơ quan, đơn vị có thay đổi, sáp nhập về
tổ chức và đơn vị hành chính được thực hiện kịp thời. Đến nay, toàn Đảng bộ
huyện có có 38 tổ chức cơ sở Đảng và 186 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở. Công
tác phát triển đảng viên được chú trọng[94]. Hoàn thành việc “xóa thôn trắng” đảng
viên, chất lượng đội ngũ đảng viên được nâng lên.
Công
tác kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc[95], góp phần quan trọng vào việc nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đảng
viên. Công tác dân vận được đổi mới theo hướng thiết thực, hiệu quả, mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân được tăng cường. Phong trào thi đua “Dân
vận khéo” được đẩy mạnh. Quy chế dân chủ ở cơ sở được chú trọng, quyền làm chủ
của Nhân dân được phát huy, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, mở rộng.
Phương thức lãnh đạo của Đảng ngày càng được đổi mới.
Bộ
máy chính quyền các cấp được xây dựng theo hướng tinh gọn, hiệu quả quản lý,
điều hành và tổ chức thực hiện được nâng lên. Việc sắp xếp các phòng, ban, các
đơn vị sự nghiệp công lập, các xã, thôn, bản, khu phố theo đúng tinh thần Nghị
quyết số 18, 19 của BCH TW (khóa XII) đảm bảo kịp thời, nghiêm túc[96].
Hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp không ngừng được đổi mới về
nội dung và hình thức, phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại doàn
kết, tạo sự đồng thuần, thống nhất cao trong xã hội, góp phần quan trọng thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Tuy
nhiên, việc triển khai thực hiện các Chương trình, Đề án phát triển kinh tế –
xã hội ở một số địa phương hiệu quả chưa cao. Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng Nông thôn mới chưa đạt kế hoạch đề ra. Chất lượng đơn vị văn hóa, gia
đình văn hóa ở một số địa phương còn thấp. Công tác giảm nghèo thiếu bền vững.
Tình hình an ninh nông thôn còn tiềm ẩn phức tạp, tội phạm, tệ nạn ma túy ngày
càng có xu hướng gia tăng. Công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trai thù
địch chưa sắc bén, đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc trên mạng
xã hội khó khăn và bị động. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ
chức cơ sở Đảng chưa thể hiện được vai trò hạt nhân ở cơ sở. Hoạt động của
chính quyền một số mặt hiệu quả chưa cao, nhất là trên lĩnh vực quản lý, sử
dụng đất. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội có mặt còn hạn chế.
Những
kết quả đạt được trong 10 năm qua (2010-2020) và sau 30 năm lập lại huyện, từ
một huyện khó khăn, điểm xuất phát thấp đến nay đã thực sự đổi thay. Ghi nhận
và biểu dương những thành tựu đã đạt được đó, ngày 26/3/2020, Chủ tịch nước đã
kí Quyết định số 375/QĐ-CTN tặng thưởng “Huân chương Lao động hạng nhất” cho
cán bộ và Nhân dân huyện Gio Linh. Đó là kết quả của quá trình phấn đấu liên
tụccủa Đảng bộ, Nhân dân huyện nhà; là minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng, là kết quả tổng hòa của việc khơi dậy ý chí tự lực, tự cường
và phát huy truyền thống anh hùng, tiềm năng lợi thế kinh tế của quê hương.
Phấn khởi, tự hào với những thành tựu đạt được đó, với niềm tin tưởng tuyệt đối
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới đất nước, cán bộ, Nhân dân Gio
Linh sẽ tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, đoàn kết, chung sức,
chung lòng, phát huy sức mạnh nội lực, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài,
quyết tâm đưa Gio Linh từng bước phát triển nhanh, bền vững, xứng danh mảnh đất
anh hùng.
KẾT LUẬN
90
năm chặng đường lịch sử đã qua (1930-2020), chúng ta tự hào với truyền thống
đấu tranh anh dũng, kiên cường trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
càng tự hào với những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Gio Linh đạt được trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương, đưa huyện Gio Linh thoát đói, giảm
nghèo từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và hiện đại.
Từ thực tiễn của phong
trào cách mạng huyện nhà, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Gio Linh trong
giai đoạn từ năm 1930 đến năm 2020, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm
sau:
Thứ nhất, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng
phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng bộ. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Luôn quan tâm chăm lo công tác xây dựng Đảng bộ
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Thường xuyên giáo dục chính trị, tư
tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình,
đấu tranh phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ và vận dụng một cách đúng
đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa phương; chủ động
đề ra các nghị quyết, chủ trương, giải pháp, bước đi thích hợp, chỉ đạo sát
đúng, cụ thể cho từng địa phương, đơn vị, từng lĩnh vực. Tập trung huy động mọi
nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, xây dựng Đảng bộ và hệ
thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh. Tăng cường đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, coi đó là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân; hết sức coi
trọng công tác cán bộ, xem đó là một trong những nhân tố quyết định thành công
của sự nghiệp cách mạng của huyện, chú trọng lựa chọn đội ngũ cán bộ đủ phẩm
chất và năng lực, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, vai
trò nêu gương và trách nhiệm của người đứng đầu. Xây dựng chính quyền
trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đủ sức quản lý,
điều hành, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Thứ tư, coi trọng phát huy vai trò Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tập hợp, xây dựng khối đoàn kết toàn
dân, huy động mọi tầng lớp Nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, do đó các chủ
trương, nhiệm vụ đề ra phải hợp lòng dân, thiết thực, phục vụ lợi ích của nhân
dân, được nhân dân bàn bạc thì sẽ tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi và đạt
hiệu quả cao.
Những truyền thống tốt
đẹp, những thành quả to lớn, những kinh nghiệm quý báu của Đảng bộ và Nhân dân
Gio Linh trong những năm qua là tài sản vật chất và tinh thần vô giá, mang lại
niềm tự hào cho mỗi cán bộ và nhân dân huyện nhà.
Phát huy truyền thống
cách mạng kiên cường, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, năng động, sáng tạo,
Đảng bộ và Nhân dân Gio Linh quyết tâm xây dựng quê hương ngày một giàu đẹp,
văn minh.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
I. BÍ THƯ HUYỆN ỦY QUA
CÁC THỜI KỲ
1. Đồng chí Trương Văn
Hoàn - Bí thư Huyện ủy từ tháng 4/1937 đến tháng 12/1939.
2. Đồng chí Bùi Trung
Lập - Bí thư Huyện ủy từ tháng 12/1939 đến tháng 8/1941.
3. Đồng chí Phạm Chít -
Bí thư Huyện ủy từ tháng 8/1941 đến cuối năm 1942 và từ giữa năm 1945 đến tháng
9/1945.
4. Đồng chí Trần Hồng
Trường - Bí thư Huyện ủy từ tháng 9/1945 đến giữa năm 1946.
5. Đồng chí Lê Khắc
Khoan (Lê Khoang) - Bí thư Huyện ủy từ giữa năm 1946 đến cuối năm 1948.
6. Đồng chí Trần Miến -
Bí thư Huyện ủy từ cuối năm 1948 đến cuối năm 1949.
7. Đồng chí Hoàng Ca
(Trần Phong) - Bí thư Huyện ủy từ cuối năm 1949 đến tháng 6/1951.
8.
Đồng chí Nguyễn Đàm - Bí thư Huyện ủy từ tháng 6/1951 đến tháng 2/1953.
9. Đồng chí Nguyễn Đức
Dũng - Bí thư Huyện ủy từ tháng 3/1953 đến năm 1955 và từ đầu năm 1958 đến năm
1963.
10. Đồng chí Lê Đình Quế
- Bí thư Huyện ủy từ năm 1956 đến năm 1958.
11. Đồng chí Nguyễn Công
Hoạt - Bí thư Huyện ủy từ đầu năm 1964 đến năm 1967.
12. Đồng chí Vũ Soạn -
Bí thư Liên Huyện ủy Gio - Cam từ đầu năm 1968 đến đầu năm 1969.
13. Đồng chí Nguyễn Thư
(Nguyễn Sanh) - Bí thư Liên Huyện ủy Gio - Cam năm 1969.
14. Đồng chí Trần Thanh
Vân - Bí thư Huyện ủy từ năm 1970 đến năm 1971 và từ năm 1974 đến tháng
11/1975.
15.
Đồng chí Phan Chung - Bí thư Huyện ủy từ năm 1972 đến năm 1973 và Bí thư Huyện
ủy Bến Hải năm 1983 đến tháng 11/1986.
16. Đồng chí Nguyễn Đức
Ấm - Bí thư Huyện ủy từ tháng 11/1975 đến tháng 5/1977.
17. Đồng chí Cao Văn Đàn
- Bí thư Huyện ủy Bến Hải từ tháng 6/1977 đến tháng 12/1982
18. Đồng chí Nguyễn
Hoa Nam – Bí thư Huyện ủy Bến Hải từ tháng 11/1986 đến tháng 3/1990
19. Đồng chí Nguyễn
Viết Nên – Bí thư Huyện ủy Gio Linh từ tháng 3/1990 đến tháng 6/1996
20. Đồng chí Hoàng
Ngọc Lân - Bí thư Huyện ủy Gio Linh từ tháng 6/1996 đến 5/2000
21. Đồng chí Lê Thị
Phương Hoa - Bí thư Huyện ủy Gio Linh từ tháng 5/2000 đến năm 2008
22. Đồng chí Phan Văn
Phụng - Bí thư Huyện ủy Gio Linh từ năm 2008 đến năm 2013
23. Đồng chí Lê Quang
Chiến - Bí thư Huyện ủy Gio Linh từ năm 2013 đến năm 2017
24. Đồng chí Trương Chí
Trung - Bí thư Huyện ủy Gio Linh từ năm 2017 đến năm 2020
25. Đồng chí Trần Văn
Quảng - Bí thư Huyện ủy Gio Linh từ năm 2020 đến nay
II. CÁC ĐỊA PHƯƠNG, ĐƠN
VỊ ĐƯỢC PHONG TẶNG DANH HIỆU "ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN"
1.
Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Gio Linh.
2. Nhân dân và Ban an
ninh huyện Gio Linh.
3. Cán bộ và nhân dân xã
Gio Hải (nay là xã Gio Hải, xã Gio Việt, thị trấn Cửa Việt).
4. Cán bộ và nhân dân xã
Trung Giang.
5. Lực lượng vũ trang
nhân dân và nhân dân xã Trung Hải.
6. Nhân dân và Lực lượng
vũ trang nhân dân xã Gio Hà (nay là xã Gio Mai, xã Gio Quang).
7.
Nhân dân và Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trung Sơn.
8. Nhân dân và Lực lượng
vũ trang nhân dân xã Gio An.
9. Nhân dân và Lực lượng
vũ trang nhân dân xã Gio Lễ (nay là xã Gio Phong, xã Gio Châu, thị trấn Gio
Linh).
10. Cán bộ và nhân dân
xã Gio Mỹ (nay là xã Gio Mỹ, xã Gio Thành).
11. Đội 4 bộ đội địa
phương huyện Gio Linh.
12. Đội trinh sát vũ
trang huyện Gio Linh.
13. Ban An ninh xã Gio
Hải.
III. CÁC CÁ NHÂN ĐƯỢC
TẶNG DANH HIỆU "ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN"
* Các đồng chí tham gia
chiến đấu trên địa bàn Gio Linh:
1. Đồng chí Nguyễn Xuân
Cần (Liệt sỹ). Sinh năm
1929. Đảng viên.
- Quê quán: Xã Thanh
Ngọc, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Chức vụ: Ủy viên
Thường vụ Huyện ủy, Trưởng ban An ninh huyện Gio Linh.
- Hy sinh năm 1972.
-
Được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng danh hiệu "Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân", ngày 6/6/1976.
2.
Đồng chí Trương Quang Thọ. Sinh năm 1948. Đảng viên.
- Quê quán: Thôn 7, xã
Gio Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ: Xã đội trưởng
xã Gio Hải.
- Được Chính phủ lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân" ngày 20/12/1973.
- Bị bệnh mất năm 1979.
3. Đồng chí Lê Quang
Thiệu (Liệt sỹ). Sinh
năm 1948. Đảng viên.
- Quê quán: Thôn Cẩm
Phổ, xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ: Đội trưởng
đội trinh sát vũ trang, Ban an ninh huyện Gio Linh.
- Hy sinh năm 1972.
- Được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" vào
ngày 3/8/1995.
4.
Đồng chí Trần Thị Cúc (Liệt sỹ). Sinh năm 1946. Đảng viên.
- Quê quán: Thôn 5, xã
Gio Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ: Phó ban an
ninh xã Gio Hải.
- Hy sinh năm 1968.
- Được Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân" vào ngày 22/7/1998.
5. Đồng chí Nguyễn Thị
Cam (Liệt sỹ). Sinh năm
1948. Đảng viên.
- Quê quán: Thôn Nhĩ Hạ,
xã Gio Thành, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
- Chức vụ: Xã đội phó xã
Gio Mỹ.
- Hy sinh năm 1972.
-
Được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân" vào ngày 11/6/1999.
6. Đồng chí Nguyễn Ngọc
Lễ (Liệt sỹ). Sinh năm
1947. Đảng viên.
- Quê quán: Thôn 5, xã
Gio Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ:
Xã đội trưởng xã Gio Hải.
- Hy sinh
năm 1969.
- Được Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân" vào ngày 28/4/2000.
7. Đồng chí Nguyễn Thị
Ơn. Sinh năm 1932.
Đảng viên.
- Quê quán: Thôn An
Trung, xã Gio Việt, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (hiện nay là Khu phố 8, thị
trấn Cửa Việt).
- Chức vụ: Phó Bí thư
Chi bộ thôn An Trung, xã Gio Hải.
- Hy sinh năm 1966.
-
Được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân" vào ngày 8/11/2000.
8. Đồng chí Lê Hữu Châu (Liệt sỹ). Sinh năm 1945. Đảng viên.
- Quê quán: Thôn Cẩm
Phổ, xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
-
Chức vụ: Du kích xã Trung Giang.
-
Hy sinh năm 1972.
-
Được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu
"Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" vào ngày 5/12/2007.
9. Đồng chí Lê Quang Huỳnh (Liệt sỹ). Sinh năm 1952.
- Quê quán: Thôn Hà
Thượng, xã Gio Châu, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ: Du kích xã
Gio Lễ.
- Hy sinh năm 1970.
-
Được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân" vào ngày 25/4/2013.
10. Đồng chí Trương Đức
Hai. Sinh năm 1952.
-
Quê quán: Xã Trung Hải, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ: Nguyên xã đội
trưởng xã Gio Sơn năm 1971.
- Được Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" vào
ngày 25/4/2013.
- Hiện đang sống tại Khu
phố 4, phường 1, thành phố Đông Hà.
11. Đồng chí Trần Phước. (Liệt sỹ). Sinh năm 1949.
- Quê quán: Thôn Nam
Sơn, xã Trung Giang, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ: Mũi trưởng.
- Hy sinh năm 1972.
- Được Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" năm
2014.
* Các đồng chí là con em
Gio Linh tham gia chiến đấu ở các địa phương khác:
1. Đồng chí Nguyễn Chí
Phi. Sinh năm 1931.
Đảng viên
-
Quê quán: xã Trung Giang, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ: Chính trị
viên Tiểu đoàn 10, bộ đội đặc công tỉnh Quảng Trị.
- Được Chính phủ lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân" ngày 22/12/1969.
2. Đồng chí Lê Văn
Quang (Liệt sỹ). Sinh năm
1930. Đảng viên.
- Quê quán:
Thôn Kinh Môn, xã Trung Sơn, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
- Chức vụ:
Tiểu đội trưởng đội trinh sát vũ trang Công an nhân dân huyện Vĩnh Linh.
- Hy sinh
năm 1964.
- Được Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân" vào ngày 3/8/1995.
3.
Đồng chí Nguyễn Sen (Liệt sỹ). Sinh năm 1940. Đảng viên.
- Quê quán: Thôn Phước
Thị, xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
-
Chức vụ: Phó Bí thư Chi bộ Đội công tác thuộc Ban binh vận H6.
- Hy sinh năm 1972.
- Được Chủ tịch nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân" vào ngày 23/2/2010.
IV. LIỆT SỸ, THƯƠNG BINH
1. Tổng số Liệt sỹ:
3.327 đồng chí.
2. Thương binh: 1.725
đồng chí. Số đang hưởng chính sách: 789 đồng chí. Trong đó:
-
Thương binh đặc biệt: 4 đồng chí (81% trở lên có vết thương đặc biệt nặng).
-
Thương binh hạng 1: 12 đồng chí (tỷ lệ thương tật 81% trở lên).
-
Thương binh hạng 2: 74 đồng chí (tỷ lệ thương tật từ 61-80%.
-
Thương binh hạng 3: 699 đồng chí (tỷ lệ thương tật từ 21-60%)
V.
HUÂN, HUY CHƯƠNG CÁC LOẠI
- 1
Huân chương Thành đồng hạng II.
-
115 Huân chương Độc lập.
-
898 trường hợp được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.
-
886 trường hợp được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì.
-
2.788 trường hợp được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba.
-
1.998 trường hợp được tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất.
-
1.505 trường hợp được tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhì.
- 603 trường hợp được Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ tặng Bằng khen) và UBND tỉnh tặng Bằng khen trong kháng chiến.
Phụ lục 2. CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
Hệ thống khai thác nước
và dẫn thủy cổ Gio An
Giếng Đào – An Nha
Hệ
thống giếng cổ Gio An được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng di tích lịch sử - văn
hóa cấp quốc gia theo quyết định số 08/2001/QĐ-BVHTT ngày 13/3/2001. Hệ thống
14 giếng cổ bao gồm Giếng Côi, Giếng Dưới, Giếng Búng, Giếng Trạng, Giếng Đào ở
thôn An Nha. Giếng Gái 1, Gái 2, Giếng Nậy thôn An Hướng. Giếng Tép, Giếng Ông,
Giếng Bà, Giếng Gai thôn Hảo Sơn. Giếng Máng thôn Long Sơn. Giếng Pheo thôn Tân
Văn. Giếng Đào là một trong những giếng cổ ở Gio An giữ được tương đối
hình dáng nguyên vẹn ban đầu.
Các nhà khoa học giả thiết hệ thống giếng cổ được hình
thành vào trong khoảng từ thế kỷ IX - XI thuộc thời đại Chăm, vào thời kỳ cuối
của thời đại đồ đá mới, nghĩa là đã 5.000 năm tuổi.
-----
Chùa Bảo Đông và Lăng mộ
Trần Đình Ân
Trong số những di tích
lịch sử văn hóa Phật giáo tồn tại trên đất Quảng Trị, thì Chùa Bảo Đông nổi
trội hơn hết về mặt nghệ thuật kiến trúc bằng đá cũng như giá trị về văn hóa
lịch sử. Vị trí của chùa nằm trong khuôn viên của ngôi tháp Chăm cổ, một trung
tâm sinh hoạt tín ngưỡng của bộ phận người Chăm. Ngày nay, Chùa Bảo Đông nằm ở
làng Hà Trung, xã Gio Châu (gọi là Chùa Bình Trung).
Tháng 8 năm Quý Mùi (1703),
vị Tham chánh Trần Đình Ân sau khi từ chức về làng đã sử dụng khu đền tháp
trung tâm để ở và tu đạo, lấy tên là Chùa Bình Trung. Ông cho xây nhà bia, dựng
một bia đá ghi bài thơ và bài tự do chính chúa Nguyễn Phúc Chu đề tặng. Nhà
bia xây bằng gạch, vữa vôi, hình dáng như một ngôi miếu cổ có diện tích 9m2,
cao gần 5m, mặt quay về hướng Nam. Trần nhà bia hình vòm cuốn, mặt sau xây bít
kín, ba mặt còn lại mở ba cửa vòm cuốn. Phía trước nhà bia có có một bức cuốn
thư đắp bằng vữa ghi 4 chữ Hán: Tú Triều Thạc phụ. Bên trong dựng một tấm bia
bằng đá sa thạch, cao 1,5m, rộng 0,9m, đứng trên một bệ đá hình rùa giống như
các tấm bia tiến sĩ ở Văn Miếu - Hà Nội. Tấm bia này có tên là Tứ công thần
bia.
-----
Đình làng Hà Thượng (Thị
trấn Gio Linh)
Đình
làng Hà Thượng nằm trên địa bàn thị trấn Gio Linh được xây dựng vào năm
1690. Đình làng Hà Thượng nằm trên một khu đất rộng hơn 8 nghìn mét vuông. Ngay
trước cổng đình lại là khu đất Chợ
Cầu ngày xưa. Chợ Cầu vốn được lập vào năm 1667 dưới thời Chúa Nguyễn và 23 năm
sau khi có Chợ Cầu, người dân Hà Thượng
mới cất dựng đình làng. Đình làng Hà Thượng cũng là nơi thành lập Chi bộ
Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện - Chi bộ Chợ Cầu ngày 01/02/1932.
-----
Chứng
tích vụ thảm sát ở làng Tân Minh
Làng Tân Minh nằm ở phía
tây Đường 75B thuộc xã Gio Thành, huyện Gio Linh. Cách trung tâm tỉnh lỵ Đông
Hà 14km về phía đông bắc, cách Quốc lộ 1A 4km về phía đông. Địa điểm trung tâm
của Vụ thảm sát làng Tân Minh 1947 được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích
cấp Quốc gia theo Quyết định Số 65/QĐ-VH ngày 15/11/1991.
-----
Căn cứ quân sự Dốc Miếu
- CồnTiên
Tượng đài Giao Bưu trên khu Di tích Dốc Miếu
Dốc Miếu
được coi là cứ điểm quan trọng nhất của phòng tuyến Mac-na-ma-ra. Ở đây, địch xây dựng hệ thống hầm nhà vòm, hệ
thống lô cốt di động bằng bê tông và trận địa pháo mặt đất hướng bắn ra bờ Bắc
sông Bến Hải, có trận địa phòng không 37, trung tâm điều khiển bảo
vệ hàng rào, chi đội thiết giáp tuần tra cùng nhiều đại đội hổn hợp Mỹ - Ngụy.
Xung quanh căn cứ ngoài các hàng rào kẽm gai dày bom mìn là hệ thống máy móc
báo động chống xâm nhập.
Ngày nay, địa danh dốc
Miếu - Cồn Tiên trở thành một di tích hấp dẫn du khách trong hành trình tour du
lịch DMZ của Quảng Trị. Nơi đây, sừng sững trên đỉnh đồi cao là một tượng đài
chiến thắng ghi công các chiến sĩ giao liên đã góp phần đập tan hệ thống pháo
đài Dốc Miếu - Cồn Tiên. Nhìn từ tượng
đài chừng 7km về phía bắc là di tích đôi bờ Hiền Lương, một biểu tượng
của khát vọng thống nhất non sông, khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam.
-----
Cầu
treo Bến Tắt (Linh Trường)
Cầu
treo Bến Tắt được xây dựng vào năm 1973, bắc qua thượng nguồn sông Bến Hải, có
chiều dài 150m, rộng 6m với 8 sợi dây cáp treo 2 bên. Đây là chiếc cầu treo đầu
tiên và duy nhất do các kỹ sư Cu Ba thiết kế, xây dựng còn lại trên tuyến đường
vận tải Hồ Chí Minh huyền thoại. Năm 1986, cầu treo Bến Tắt được công nhận là
di tích lịch sử quốc gia.
-----
Cầu Hiền
Lương – sông Bến
Hải
Tháng 7/1954, theo Hiệp
định Giơ-ne-vơ, sông Bến Hải (Cầu Hiền Lương) là giới tuyến tạm thời chia đôi
đất nước.
Nhưng vào năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng
hòa của Ngô Đình Diệm dưới sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đã đơn phương không tham gia
tổng tuyển cử, do đó sông Bến Hải tiếp tục là nơi chia cắt hai miền đất nước
cho đến năm 1975. Đôi bờ Hiền Lương đã trở thành "nhân chứng lịch
sử", trên 20 năm mang trên mình nỗi đau chia cắt đất nước, nơi đã chứng
kiến cảnh tang tóc, đau thương nhưng vô cùng anh dũng, kiên trung của nhân dân
đôi bờ Nam - Bắc vì sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
Ngày 30/4/2014, nhân kỷ
niệm 39 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, di tích Đôi
bờ Hiền Lương - Bến Hải được đón nhận Bằng công nhận “Di tích quốc
gia đặc biệt” của Thủ tướng Chính phủ.
-----
[1]Huyện Địa Linh có 4 tổng: An Xá, An Mỹ, An Định,
Bái Ân, gồm 116 thôn, phường, giáp, số đinh 5.570 người, ruộng có 11.106 mẫu,
lỵ sở đóng tại thôn Hà Thượng.
[2]Linh Mai, Linh Sơn, Linh Thượng, Linh Tiên, Linh
Phong, Linh Giang, Linh Hưng, Linh Phùng, Linh Hà
[3]Ngày 13 tháng 3 năm 1979, xã Trung Tân giải thể
theo Quyết định số 02 - CP của Hội đồng Chính phủ, thôn Thủy Khê và Cẩm Phổ
nhập vào xã Gio Mỹ; thôn Xuân Mỵ và Bách Lộc trở lại xã Trung Hải.
Ngày 17/11/1984, Công ty
cao su Bình Trị Thiên được thành lập, đứng chân trên địa bàn huyện Gio Linh, 7
xã miền tây Gio Linh (Hải Thái, Hải Trung, Hải Bình, Gio Sơn, Gio An, Gio Bình,
Gio Hòa) bàn giao diện tích lớn đất đai, chủ yếu là đất ba zan đỏ màu mỡ cho
Công ty trồng cao su; toàn bộ lao động được đưa vào làm công nhân các nông
trường của công ty. Bảy xã miền Tây Gio Linh vào cơ chế quản lý mới: Xã - Nông
trường. Với cơ chế này, huyện Bến Hải chỉ quản lý về mặt hành chính, quốc
phòng, an ninh.
Tháng 1/1986, các xã Hải
Trung, Hải Bình, Gio Hòa, Gio Sơn hợp nhất thành xã Gio Sơn; xã Gio An và Gio
Bình hợp nhất thành xã Gio An thuộc Công ty cao su Quảng Trị.
[4]Huyện Gio Linh gồm các xã: Trung Giang, Trung
Hải, Trung Sơn, Vĩnh Trường, Linh Thượng, Gio An, Gio Sơn, Hải Thái, Gio Phong,
Gio Châu, Gio Mỹ, Gio Thành, Gio Hải, Gio Việt, Gio Mai, Gio Quang.
Ngày 9/3/1992, thực hiện
Quyết định số 116-QĐ/TCCP của Ban Tổ chức - Cán bộ của Chính phủ "về việc
phân vạch điều chỉnh địa giới xã thuộc huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị". Xã
Gio Sơn tách làm 3 xã: Gio Hòa, Linh Hải và Gio Sơn; xã Gio An tách làm hai xã
Gio An và Gio Bình.
Ngày 24/4/1992, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị ra Quyết định số 106-QĐ/TV về việc chuyển đảng viên
ngoài biên chế thuộc các xã miền tây Gio Linh mà Đảng bộ Công ty Cao su Quảng
Trị quản lý về sinh hoạt tại Đảng bộ huyện Gio Linh. Từ đây, cơ chế quản lý Xã
- Nông trường được xóa bỏ, bảy xã miền Tây trở về dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
huyện Gio Linh.
Ngày 01/8/1994,
Thị trấn Gio Linh được thành lập gồm một phần của các xã Gio Châu, Gio Phong,
Gio Bình.
Tháng 12/2005, thị trấn
Cửa Việt được thành lập theo Nghị định số 103/NĐ-CP ngày 09/08/2005 của Chính
phủ, gồm một phần của các xã Gio Việt và Gio Hải.
Đến năm 2005, huyện Gio
Linh bao gồm 19 xã và 2 thị trấn, trong đó, thị trấn Gio Linh là thị trấn huyện
lỵ, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện.
[5]Linh Trường, Hải Thái, Gio Sơn, Linh Hải, Gio
An, Phong Bình, Trung Sơn, Trung Hải, Trung Giang, Gio Hải, Gio Mỹ, Gio Mai,
Gio Việt, Gio Quang, Gio Châu, thị trấn Cửa Việt và Thị trấn Gio Linh.
[6]Giếng cổ Gio An, Đình làng Hà Thượng, Đôi bờ
Hiền Lương- Bến Hải, Căn cứ quân sự Dốc Miếu - Cồn Tiên, Cầu treo Bến Tắt,
Chứng tích vụ thảm sát ở làng Tân Minh, Chùa Bảo Đông và Lăng mộ Trần Đình Ân,
Nghĩa trang liệt sỹ quốc gia Trường Sơn.
[7]Xem Lịch sử Đảng bộ huyện Gio Linh 1930-1975
(Trang 16 -18)
[8] Hiện nay, đồng bào Bru-Vân Kiều gồm 3.004
người (trong đó có 08 người dân tộc Pa cô)
[9] Phật giáo khoảng 5.400 tín đồ (29 chùa, 09
niệm Phật đường); 1.080 tín đồ Công giáo (02 giáo xứ, 02 chức sắc); 53 tín đồ Tin
lành (sinh hoạt tại 02 điểm nhóm Gio Việt và Gio Châu).
1 Trướcđây, Tỉnh uỷ chủ trương phát triển
Đảng ở Vĩnh Linh mạnh là Gio Linh mạnh. Đảng bộ Triệu Phong mạnh là Hải Lăng
mạnh nên không phát triển Đảng ở Gio Linh, Hải Lăng.
2 Ngày 21/2/1937, nhân dân Gio Linh cùng với
hàng ngàn quần chúng các huyện rầm rộ kéo lên tỉnh lỵ. Sáng ngày 24/2/1937,
đoàn biểu tình của Gio Linh có hai cánh: một cánh gồm dân chúng dọc hai bên
quốc lộ 1A thuộc tổng An Xá do đồng chí Cổ Tuế chỉ đạo kéo đến; một cánh từ
sông Bến Ngự kéo lên gồm dân chúng các làng Lại An, Phước Thị, Lâm Xuân, Hoàng
Hà, Nhĩ Trung, Nhĩ Thượng…do đồng chí Trần Trằm phụ trách. Từ sáng sớm đến
trưa, đoàn biểu tình càng đi càng dài, có thêm 300 quần chúng hôm trước gia
nhập. Riêng nhân dân Mai Xá, dùng thuyền chở 150 người vào thẳng Triệu Phong.
Song các đoàn biểu tình không gặp được Gô-đa vì ông ta không đi theo lịch trình
đã được thông báo, do đó, chỉ có quần chúng Lễ Môn, Kinh Môn, Hải Chữ, Thuỷ
Bạn, Xuân Hoà.. kéo ra nhập với nhân dân Vĩnh Linh, tạo thành một cuộc biểu
tình rầm rộ với 15.000 quần chúng đón Gô-đa, đưa dân nguyện tại bến đò Hiền
Lương vào ngày 26/2/1937.
3 Trong báo cáo của thượng thư bộ lại Thái
Văn Toản lên Khâm sứ Trung Kỳ ngày 27/2/1937, y đã thú nhận rằng: “Ngày
26/2/1937, một đoàn khoảng 500 người cả nam phụ lão ấu quê quán Vĩnh Linh, Gio
Linh, Cam Lộ do các cựu chính trị phạm dẫn đầu đã đón tiếp ông Gô-đa và trao
nguyện vọng cho ông ta tại bến đò Hiền Lương” (bọn địch cố ý hạ thấp số lượng
người tham gia).
[12] Như đồng chí Lâm Đại (Gio An), liên lạc
của Tỉnh ủy và Huyện ủy, sau 3 tháng bị địch tra khảo dã man, 2 ống chân của
đồng chí bị dập trơ xương trắng nhưng đồng chí vẫn không khai nửa lời cho đến
lúc hy sinh; Nữ đồng chí Lê Thị Mày (Gio Sơn) người giao thông bất khuất,
“Người con gái đánh không biết đau, giết không chịu chết”, bị tra tấn 20 ngày
liền, thà hy sinh chứ không khai báo.
1Tại huyện đường ta thu được 5 súng và 1 bàn
máyđánh chữ. Ở Gio An hà Thanh ta chỉ thu được vài chục bạc Đông Dương tại Sở
canh nông ta thu được 5 bao thóc giống.
2 NguyễnĐăng Khoa- chủ tịch, Trương Khắc
Khoan -phó chủ tịch kiêm uỷ viên tư pháp, Trần Đình Thảo- Uỷ viên tuyên truyền,
Trương công Huỳnh- Uỷ viên giáo dục, Trần Hữu Viện- Uỷ viên giao thông công
chánh, Tùng Lâm -Uỷ viên quân sự, Trần Thị Loan -Uỷ viên tiếp tế.
[13]Đồng chí Trần Hồng Trường làm Bí thư, đồng chí
Nguyên Đăng Khoa làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng, đồng chí Trần Miến làm
chủ tịch Mặt trận Việt Minh.
[14]Linh Mai, Linh Sơn, Linh Tiên, Linh Phong, Linh
Châu, Linh Hưng, Linh Phùng, Linh Hà (về sau thành lập thêm xã Linh Thượng)
[15] Như đồng chí Nguyễn Đăng Khoa – Chủ tịch
UBKCHC huyện, đ/c Phạm Chít, đ/c Trần Hồng Trường – Nguyên Bí thư Huyện ủy, đ/c
Cổ Tuế…
[16] Tháng 8/1947, tiểu đội 6 nữ du kích do chị
Nguyễn Thị Út (người An Xá) làm tiểu đội trưởng chỉ huy phối hợp với 1 đơn vị
Trung đoàn 95 phục kích đánh 1 toán lính Lê Dương trên đường 73, tiêu diệt được
1 số tên, bắt sống 1 tên, thu 1 súng tôm-xơn. Đây cũng là tên lính Pháp đầu
tiên bị bắt sống trên chiến trường Quảng Trị và chị Nguyễn Thị Út được bầu là
chiến sỹ thi đua toàn tỉnh năm 1948.
Ngày 24/9/1947, hơn 100 tên địch tổ chức càn vào
làng Cẩm Phổ bị ta chặn đánh, tiêu diệt 14 tên, làm bị thương nhiều tên và thu
1 trung liên, 8 súng trường...
[17] Trong 1 buổi sáng, chúng đã giết 152
người, trong đó 131/173 người làng Tân Minh, 41 hộ đều có người chết trong đó
có 3 hộ bị chúng giết sạch, trong số những người bị giết có 6 phụ nữ mang thai
và 45 trẻ em
[18]Do lực lượng của ta ít và
vũ khí thô sơ, địch bao vây và bắt được đồng chí
Nguyễn Kỳ là xã đội trưởng và đồng chí Nguyễn Phi là tự vệ của xã đem về giam
tại đồn Nhĩ Hạ. Mặc dù chúng tra tấn dã man nhưng không khai thác được gì, bọn
chúng đã hèn hạ chặt đầu hai đồng chí đem cắm ở đình chợ Mai Xá. Đêm đến, các
mẹ ở làng đem thúng ra đưa đầu của các đồng chí về mai tang.Sự kiện này đã được
nhạc sĩ Phạm Duy sang tác thành bài hát “Bà mẹ Gio Linh”.
[19]Tính đến cuối năm 1948, quân và dân ta đã giải
tán 71/81 hội tề. Một số tề vệ còn lại co vào các vị trí gần đồn địch, không
dám hung hăng như trước.
[20]xã Linh Trường ngày nay
[21] Báo cáo số 44/VP-TU ngày 11/1/1949 gởi lên
các Liên khu ủy khu III, IV, V và khu VI, trong báo cáo có đoạn viết: “Ở Gio
Linh, địch đóng 6 vị trí chiến đấu và 5 vị trí Hương vệ. Chúng dùng chính sách
lùng quét từ bể lên núi để tiêu diệt dân quân và bộ đội, bắt cán bộ, khủng bố
nhân dân rất khốc liệt. Chúng đã dùng chính sách “đốt sạch, diệt sạch, cướp
sạch” nhằm làm ngăn chặn phong trào cách mạng đang lên ở Gio Linh. Hàng ngàn
thanh niên bị giết hàng trăm cán bộ bị bắt. Chúng lùng ngày, lùng đêm, vây
thôn, đốt làng, giết người chặt đầu đem treo ở ngoài chợ. Chúng chọc tiết và
móc mắt trẻ em. Chúng bắn trả thù hàng 4, 5 chục thanh niên một lần. Mặc dù
vậy, phong trào Gio Linh vẫn đứng vững, chính quyền bù nhìn bị triệt hạ, chính
quyền ta được củng cố và phát triển không ngừng, dân quân hoạt động mạnh và đều
khắp”.
[22]Giữa năm 1951 ta giành thắng lớn tại trận Ba
Dốc, tiêu diệt và bắt sống 81 tên, thu 1 đại bác 75mm, 328 viên đạn đại bác, 2
trung liên, 80 súng trường, 20 tấn gạo và nhiều quân trang, quân dụng. Sau trận
Ba Dốc thắng lợi, quân và dân huyện Gio Linh cùng toàn tỉnh liên tiếp tiêu diệt
một số lô cốt bằng bê tông cốt thép kiên cố của địch, trong đó có lô cốt Hà
Thanh án ngữ trên đường 74, hành lang Đông – Tây huyện Gio Linh được mở rộng,
tạo điều kiện cho cán bộ, bộ đội, du kích hoạt động yên ổn, không còn bị địch
phục kích như trước.
[23]Sau 5 giờ (8h sáng 18/3/1952- 12h sáng
18/3/1952) chiến đấu quyết liệt và dũng cảm của quân ta đã thắng lớn, diệt gần
800 tên địch, bắt sống 24 tên, phá hủy 15 xe cơ giới, thu phấn lớn quân trang,
quân dụng. Tiểu đoàn Âu phi 27/BTA bị thiệt hại nặng, tiểu đoàn 7 ngụy binh bị
xóa sổ. Chiến thắng Nam Đông – đường 74 là trận thắng lớn làm nức lòng quân dân
3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
[24] Về giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi
quân sự, theo quyết định số 6/QĐ của Uỷ ban liên hiệp Trung ương được qui định
như sau: "Từ cửa sông Bến Hải (Sông Cửa Tùng) và dòng sông đó (ở miền núi
gọi là Rào Thanh) đến làng Bồ Hồ Sừ, rồi vĩ tuyến Bồ Hồ Sừ cho đến biên giới
Việt - Lào. Ở đoạn giới tuyến quân sự tạm thời trùng với sông Bến Hải, mỗi bên
sẽ chịu trách nhiệm đặt ở những địa điểm qua lại những dấu hiệu dễ nhận thấy.
Ranh giới khu phi quân sự là những đường hạn định khu phi quân sự ở phía bắc và
phía nam vĩ tuyến 17, mỗi bên xa nhất (cách vĩ tuyến 17) 5km. Ranh giới bắc và
nam khu phi quân sự được đánh dấu trên địa hình bằng những cọc gỗ đặt ở địa
điểm dễ nhận thấy, có ghi "Khu phi quân sự" biển ghi ngang, viền
trắng chữ xanh hoặc đen.
Cũng theo Quyết định
này, việc bảo vệ giới tuyến quân sự và khu phi quân sự sẽ do lực lượng công an
và cảnh sát của hai bên đảm nhiệm. Mỗi bên có nhiều nhất là 100 người, kể cả
cán bộ. Trang bị cho mỗi đội có 50% mang súng ngắn; số còn lại 1/3 mang carbin,
2/3 mang tiểu liên, không có lựu đạn. Mỗi khẩu carbin hoặc tiểu liên có 200
viên đạn, súng ngắn 50 viên.
Để kiểm soát đường ranh
giới quân sự tạm thời, bản qui chế nêu rõ
10 địa điểm được phép qua lại gồm có: Cầu Hiền Lương và 9 bến đò nối thôn xóm
đôi bờ sông Bến Hải: Cửa Tùng - Cát Sơn, Tùng Luật - Xuân Mỵ, Phước Lý - Bạch
Lộc, Chòi - Xuân Long, Hiền Lương - Xuân Hoà, Huỳnh Thượng - Võ Xá, Tiên An -
Kinh Môn, Minh Hương - Hói Cụ, Bến Tắt - Cẩm Sơn. Bản qui chế còn nghiêm
cấm dân thường, quân nhân... vào khu phi quân sự trừ ban liên hợp và công an,
nhân viên làm nhiệm vụ ở giới tuyến.
[25]bao gồm cả xã Vĩnh Liêm và
một phần xã Vĩnh Sơn của Vĩnh Linh trước đây
[26] Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ
gồm 13 đồng chí do đồng chí Nguyễn Công Hoạt làm Bí thư Huyện uỷ.
[27]Hàng rào điện tử Mac- na- ma-ra là tên gọi
của hệ thống các thiết bị điện tử phát hiện xâm nhập để cắt đứt yết hầu
con đường chi viện của miền Bắc nước ta vào cho chiến trường miền Nam; cắt
đường mòn Hồ Chí Minh ở khu vực bao quanh vĩ tuyến 17 và đường số 9. Hệ thống
gồm 17 căn cứ quân sự kết hợp với hệ thống vật cản, các thiết bị trinh sát điện
tử mặt đất… được bố trí liên hoàn trong khu vực có chiều rộng 10-20 km, dài
khoảng 100 km từ thôn Diêm Hà Thượng (Gio Hải) qua đồi 31, Dốc Miếu, Cồn Tiên
lên Đường 9, tới biên giới Việt Nam - Lào, kéo dài sang Mường Phìn (Lào). Đây
là ý tưởng của hơn 45 nhà khoa học quân sự Mỹ, dùng toàn công cụ và khí tài
hiện đại mới được phát minh dự kiến tiêu tốn khoảng 2 tỷ đô la Mỹ.
Chúng tăng cường củng cố quân sự, hầm hào, trang
bị phương tiện chiến tranh tinh vi hiện đại để xây dựng những điểm cao thành
những "con mắt thần", “khu vực bất khả xâm phạm” của tuyến hàng rào
điện tử như: Thôn 8, điểm cao 27, đồi 31, Dốc Miếu, Bái Sơn, Cồn Tiên, Động
Ngô, Động Toàn, điểm cao 544, 241...
Trong phạm vi 500m chiều
rộng của tuyến hàng rào điện tử Mac-na-ma-ra, chúng bố trí 6 lớp hàng rào kẽm
gai đủ các kiểu "mái nhà", "mắt cáo", "ô vuông",
"khung cửa",... giữa các lớp hàng rào, chúng gài đủ loại mìn như mìn
ba càng, mìn râu, mìn ríp, mìn claymo, mìn chống tăng,... và đủ các loại lựu
đạn.
[28]Chỉ tính riêng trong 3 tháng 7, 8, 9 năm 1967,
ta đã đánh 156 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 2.198 tên địch, trong đó có 1.605
tên Mỹ, gọi hàng và rã ngũ 101 tên, phá hỏng 89 xe các loại, bắn rơi 18 máy
bay, bắn chìm 2 tàu chiến của địch.Trên thực tế đến cuối năm 1967, tuyến hàng
rào điện tử Mac-na-ma-ra đã ta vô hiệu hóa 60 đến 70%.
[29]Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ nhân ngày
27/7/1968, quân và dân Gio Linh đã khắc phục mọi khó khăn, trở ngại, liên tục
tấn công địch trên khắp địa bàn. Là chiến trường ác liệt nhất của toàn miền
Nam, quân dân trong huyện đã đánh địch tổng cộng 401 trận lớn, nhỏ, diệt 2.835
tên, trong đó có 758 tên Mỹ, làm bị thương 629 tên, bắt sống 38 tên, gọi hàng
45 tên, thu 121 súng các loại, bắn rơi 7 máy bay, đánh chìm 10 tàu chiến và ca
nô trên sông Cửa Việt, bắn cháy và phá hủy 95 xe quân sự, đánh sập 79 lô cốt,
phá sạch 3.401m hàng rào kẽm gai trên tuyến Mac- na- ma- ra- niềm tự hào của
công nghệ chiến tranh tiên tiến nhất của Mỹ đã bị vô hiệu hóa.
[30]350 hầm lán của ta bị chúng cày ủi, đánh sập, 22
chiến sĩ hy sinh, 16 đồng bào bị giết
[31]Từ tháng 1 - 9/1969, du kích và bộ đội địa
phương của huyện đã đánh 798 trận, diệt 2.123 tên, làm bị thương 666 tên, bắt
sống 14 tên, bắn rơi 37 máy bay, bắn bị thương 77 chiếc khác, phá hủy và phá
hỏng 254 xe quân sự các loại, 5 tàu chiến, cắt đứt 4.030m rào; có 54 cuộc đấu
tranh chính trị; giáo dục được 700 lượt gia đình có con đi lính ngụy, gọi hàng
10 binh lính; phát triển được 90 đảng viên, nâng số lượng đảng viên toàn đảng
bộ lên 405 đồng chí.
[32]Khu đông: gồm các xã Gio Hà, Gio Hải và Gio Mỹ.
Tại đây lực lượng địch có 3 đại đội bảo an, 10 trung đội dân vệ, 90 tên nguỵ
quyền xã thôn, 1 chi đoàn xe tăng M113 ở đồi 31. Lực lượng của ta, gồm: 1 đại
đội đặc công, 3 đội biệt động của huyện, 130 cán bộ chiến sĩ du kích xã, thôn
do đồng chí Phạm Hữu Ba - ủy viên Thường vụ Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo. Nhiệm
vụ của khu này là: diệt ác, phá kềm, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền
làm chủ, giữ vững hành lang, tạo điều kiện cho lực lượng cách mạng tiếp tục
phát triển lên phía trước.
Khu giữa: gồm Quán
Ngang, Dốc Miếu, Gio Lễ, Gio An và Gio Sơn. Lực lượng địch có 3 đại đội bảo an,
10 trung đội dân vệ, trên 300 nguỵ quyền quận Gio Linh và của các xã Gio Lễ,
Gio Sơn, Gio An, Gio Mỹ. Lực lượng ta được bố trí gồm: 150 cán bộ, chiến sĩ lực
lượng vũ trang của các đội 4, đội 8, đại đội 11, đội trinh sát an ninh vũ
trang, du kích xã Trung Hải, Trung Sơn, Trung Giang, Gio Lễ, Gio Mỹ, Gio An,
Gio Sơn và 60 cán bộ cốt cán, đảng viên hợp pháp tại chỗ do đồng chí Nguyễn
Xuân Cần - ủy viên Thường vụ Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo. Nhiệm vụ của khu giữa: Bao vây, bứt rút cứ điểm
Dốc Miếu, tấn công bằng vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị, binh vận tiêu
diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, nhanh chóng bung dân ra khỏi khu tập
trung, giải phóng chi khu quân sự Quán Ngang.
Khu
Tân Tường: gồm nhân dân các xã Trung Giang, Trung Hải, Trung Sơn bị địch dồn
vào khu tập trung sau trận càn ngày 19/5/1967.
Lực lượng địch có: 8 trung đội dân vệ, 102 nguỵ
quyền xã, thôn, 100 phòng vệ dân sự. Lực lượng ta ngoài số đảng viên cơ sở cốt
cán tại chỗ, còn có 40 chiến sĩ, cán bộ của đội 5 biệt động, 1 phân đội trinh
sát an ninh vũ trang của huyện, du kích các xã Trung Giang, Trung Hải, Trung
Sơn do đồng chí Vũ Ánh Hồng- ủy viên Thường vụ Huyện ủy trực tiếp chỉ đạo.Nhiệm
vụ của khu này là phối hợp tấn công từ bên ngoài vào với nổi dậy từ bên trong
khu tập trung để diệt địch, phá kềm, giành quyền làm chủ, bung dân ra khỏi khu
tập trung.
[33] Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ
huyện gồm 15 đồng chí ủy viên chính thức, 3 đồng
chí ủy viên dự khuyết. Ban chấp hành đã bầu ban Thường vụ gồm 5 đồng chí. Đồng
chí Trần Thanh Vân được bầu làm Bí thư Huyện uỷ.
[34]Năm học 1976 - 1977, Gio Linh có một trường cấp
III với 120 HS; 7 trường cấp II với 2.988 HS; 26 trường cấp I với 12.957 HS; 1
trường tập trung của huyện đào tạo văn hóa cấp I cho đội ngũ cán bộ có trên 100
đồng chí tham gia. Nạn mù chữ trong độ tuổi (dưới 45 tuổi) cơ bản được thanh
toán, tỷ lệ cứ 4 người dân có 1 người đi học.
[35]Toàn huyện có 1.827 đồng chí du kích; an ninh
xã, thôn có 119 đồng chí.
[36]Tổng số đảng viên của huyện từ 877 đồng chí vào
cuối năm 1975 đã tăng lên 1.038 đồng chí vào cuối năm 1976. Từ đầu năm 1975 đến
quý III năm 1976 đã đào tạo được 816 cán bộ; sắp xếp, đề bạt từ cán bộ lên
trưởng, phó các phòng, ban, đoàn thể cấp huyện 20 đồng chí.
[37]Tháng 2/1976, huyện đã tiến hành sắp xếp lại đơn
vị hành chính cơ sở, chia các xã Gio Mỹ thành 2 xã Gio Mỹ, Gio Thành; xã Gio Lễ
thành 2 xã Gio Châu và Gio Phong; Gio Hải thành Gio Hải và Gio Việt; Gio Hà
thành xã Gio Mai, Gio Quang. Thành lập mới xã Trung Tân gồm các thôn Xuân Mỵ,
Bách Lộc (Trung Hải) và Thụy Khê, Cẩm Phổ (Trung Giang).
[38] Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm
28 đồng chí, đồng chí Cao Văn Đàn làm Bí thư, đồng chí Dương Tú Anh làm Phó Bí
thư
[39] Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 35 đồng chí, bầu đồng chí
Cao Văn Đàn làm Bí thư, đồng chí Hoàng Khương, đồng chí Nguyễn Đức Ấm làm
Phó Bí thư.
[40]Trong năm 1977, toàn huyện đã khai hoang được
4000 ha, trong đó có 300 ha ruộng, đạt 98% kế hoạch, rà phá gần 40 vạn quả bom
mìn các loại, giải phóng trên 3.000 ha đất sản xuất. Sản lượng đánh bắt hải sản
liên tục tăng. Trong 3 năm (1978 - 1980) công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt
giá trị sản lượng là 5.366.000 đồng, tăng 67,6% so với năm 1976. Giá trị hàng
xuất khẩu từ 1,2 triệu đồng năm 1977 lên 1,8 triệu đồng năm 1979. Việc quản lý
thu chi ngân sách; hoạt động ngân hàng, tín dụng có nhiều tiến bộ.
[41]Đến cuối năm 1980, toàn huyện có 55 trường cấp
I, cấp II, có 5 trường cấp III, có trên 9.800 cháu vào nhà trẻ, đạt 50% số cháu
trong độ tuổi, hơn 10.000 cháu vào các lớp mẫu giáo, đạt 69%.
[42]Cuối năm 1977, có 5.250/7000 đảng viên đạt loại
khá trở lên-chiếm 75%; trong năm 1977 xử lý 248 đảng viên, trong đó đưa ra khỏi
đảng 106 đảng viên; 6 tháng đầu năm 1979 xử lý kỷ luật 7 đảng viên, đưa ra khỏi
Đảng 36 đảng viên.
[43] Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện gồm 35 đồng chí, bầu đồng chí Phan Chung làm Bí thư Huyện ủy, đồng chí
Nguyễn Xuân Quyết làm Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Trần Đắc làm Phó Bí thư
Huyện uỷ.
[44]Một số loại cây có giá trị xuất khẩu cao được
đầu tư phát triển mạnh như cao su từ 170 ha năm 1981 lên 336 ha năm 1985, hồ
tiêu từ 187,5 ha năm 1982 lên 251,5 ha năm 1985. Từ 1981 đến 1985 đã đầu tư bảo vệ trên 16.000 ha rừng, trồng cây
trên 16.500 ha đất lâm nghiệp; có 12 xã đạt trên 1 triệu cây và có 40 hợp tác
xã, 25 trường học có tổng diện tích 30 ha vườn ươm, tạo được gần 5 triệu cây
giống các loại.
[45]Từ 1981 - 1985, toàn Đảng bộ đã kết nạp được 727
quần chúng ưu tú vào Đảng. Đến cuối năm 1985, toàn Đảng bộ có 6.300 đảng viên;
kết quả đánh giá tổ chức cơ sở đảng có 42/92 đơn vị đạt trong sạch vững mạnh.
[46]Đoàn Thanh niên thực sự trở thành lực lượng xung
kích, di đầu trong các phong trào phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ Tổ quốc.
Hội LHPN thực hiện tốt các phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ đất
nước”, cuộc vận động “Nếp sống văn minh, gia đình văn hóa”, thường xuyên giáo
dục phụ nữ Giỏi việc nước, đảm việc nhà. Công đoàn đã tập hợp, động viên giai
cấp công nhân phát huy vai trò làm chủ tập thể trong công tác và sản xuất, kinh
doanh. Hội Nông dân đã thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa,
phong trào nhận khoán ruộng, thực sự trở thành những chiến sĩ trên đồng ruộng. Mặt
trận Tổ quốc đã phát huy tốt vai trò tập hợp, đoàn kết giữa các dân tộc, tôn
giáo, thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
[47] Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm
39 ủy viên chính thức, đồng chí Phan Chung làm Bí thư Huyện uỷ, đồng chí Nguyễn
Hoa Nam làm Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Đinh TấnVĩnh làm Phó Bí thư Huyện
uỷ.
[48] Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm
39 uỷ viên chính thức, 8 uỷ viên dự khuyết, đồng chí Nguyễn Hoa Nam được bầu
làm Bí thư Huyện uỷ, đồng chí Nguyễn Viết Nên làm Phó Bí thư Thường trực, đồng
chí Đinh Tấn Vĩnh làm Phó Bí thư Huyện uỷ.
[49]từ 31 hợp tác xã năm 1987 thành 36 hợp tác xã
năm 1989, bố trí 5 xã chuyên nghề biển với 8.091 lao động, 304 tàu thuyền. Sản
lượng đánh bắt 1.900 tấn năm 1986 lên 3.500 tấn năm 1989, hải sản xuất khẩu
bình quân đạt 120 tấn
[50]Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp bình quân những năm 1986 - 1989 là 100 triệu đồng, tốc độ tăng bình quân
10%/năm. Năm 1985 thu ngân sách đạt 160 triệu đồng, năm 1988 đạt 450 triệu
đồng. Số tiền tiết kiệm đến cuối năm 1988 là 300 triệu đồng, tăng gấp 30 lần so
với năm 1985.
[51]Trong 2 năm 1987-1988 có 340 đồng chí theo học
các lớp lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ tại các trường của huyện, Trung
ương, trong đó có 113 đồng chí tốt nghiệp đại học kinh tế tại chức, 43 đồng chí
học xong lớp sơ cấp chính trị tại trường Đảng huyện, 22 đồng chí học trung cấp
LLCT.
[52]Từ năm 1986-1989 đã xem xét, xử lý kỷ luật
64 trường hợp đảng viên vi phạm, trong đó 19 trường hợp đưa ra khỏi Đảng.
[53]như phong trào 3 giỏi, 3 triệu (triệu cây lâm
nghiệp, triệu đồng tiết kiệm, triệu đồng xuất khẩu), phong trào 3 xung kích,
phong trào Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phong trào Phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật của Công đoàn, phong trào Thâm canh, trồng cây
công nghiệp, cây lâm nghiệp của Nông dân
[54]Lúc này, huyện Gio Linh có
diện tích đất tự nhiên 48.157 ha, dân số 59.228 người gồm 16 xã: Trung Giang,
Trung Hải, Trung Sơn, Vĩnh Trường, Linh Thượng, Gio Phong, Gio Châu, Gio Quang,
Gio Mai, Gio Thành, Gio Mỹ, Gio Hải, Gio Việt, Gio An, Gio Sơn và Hải Thái
(trong đó, xã Gio An gồm cả Gio Bình; xã Gio Sơn gồm xã Gio Hòa, xã Linh Hải
với 14.000 nhân khẩu vẫn đang thuộc Công Ty cao su Quảng Trị quản lý theo mô
hình nông trường - xã).
[55]Đại hội đã bầu BCH Đảng bộ huyện gồm 27 đồng
chí, BTV 07 đồng chí, đồng chí Nguyễn Viết Nên giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy.
[56]Gio Bình, Gio An, Hải Thái, Gio Sơn, Gio Hòa,
Linh Hải.
[57] Thị trấn Gio Linh gồm một phần các xã Gio
Châu, Gio Phong và Gio Bình. Từ đây, Gio Linh có 1 thị trấn trung tâm huyện lỵ,
đưa tổng đơn vị hành chính lên 20 xã, thị trấn.
[58]Đại hội đã bầu BCH Đảng bộ huyện gồm 33 đồng
chí, BCH Đảng bộ đã bầu BTV huyện ủy gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Viết Nên
được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy.
[59]Tốc dộ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ
1996-2000 đạt 9%. Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 27.248 tấn, tăng 10.916 tấn
so với năm 1995, vượt 2.248 tấn so với chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
[60]Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp năm 2000 lên 12 tỷ đồng, tăng 9.512 triệu đồng so với năm 1995,
[61]Tổng số vốn đầu tư xây dựng CSHT trong 5 năm là
61.245 triệu đồng, tăng gấp 2 lần so với nhiệm kỳ 1991-1995.
[62]Tổng doanh thu thương mại, dịch vụ 34 tỷ đồng,
tăng 20,82 tỷ so với thời kỳ 1991-1995. Tổng thu ngân sách thời kỳ 1996-2000 là
43.818,9 triệu đồng, trong đó thu trên địa bàn là 12.096,3 triệu đồng.
[63]Trong 5 năm đã kết nạp được 269 đảng viên, tăng
gấp đôi so với nhiệm kỳ trước.
[64]Đại hội đã bầu BCH Đảng bộ huyện nhiệm kỳ
2001-2005 gồm 33 đồng chí, BTV gồm 11 đồng chí. Đồng chí Lê Thị Phương Hoa
được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Minh Miến giữ chức vụ Phó Bí
thư Thường trực, đồng chí Lê Xuân Nam giữ chức vụ Phó Bí thư -Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện.
[65]Đại hội đã bầu BCH Đảng bộ huyện nhiệm kỳ
2005-2010 gồm 37 đồng chí, Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí, đồng chí
Lê Thị Phương Hoa được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng chí Lê Minh Miến
giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, đồng chí Lê Xuân Nam giữ chức vụ
Phó Bí thư - CT
UBND Huyện.
[66]Phấn đấu 2007 có 100% hộ được dùng điện.
[67]Năm 2010, nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 50%, tiểu thủ công
nghiệp - xây dựng 18%, thương mại - dịch vụ 32%.
[68]Năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp - TTCN đạt 61.466 triệu đồng tăng 37.466
triệu đồng so với năm 2005 (24 tỉ đồng). Tổng doanh thu năm 2010 đạt 317,495
triệu đồng tăng 283.495 triệu đồng so với năm 2000. Tổng thu ngân sách
trên địa bàn giai 2005-2010 đạt 548 tỷ đồng, tăng 356.411 triệu đồng so với
giai đoạn 2001-2005. Doanh số cho vay giai đoạn 2005-2010 đạt 233 tỷ
đồng, tăng 43,5 tỷ đồng so với giai đoạn 2000-2005.
[69]như: chương trình 135, chương trình kiên cố hóa
trường học, dự án MAG, Plan, chia sẻ…
[70]Đến năm 2007, có 100% số hộ được sử dụng điện
lưới quốc gia. Năm 20120, bê tông hóa giao thông nông thôn đạt 37,8%,
kiên cố hóa kênh mương đạt 57,5%.
[71] Như đường cơ động và cầu Cửa Tùng – Cửa
Việt, khu công nghiệp Quán Ngang, khu dịch vụ - du lịch Cửa Việt, nhựa hóa tỉnh
lộ 76 Đông, hoàn thành các tuyến đường Gio Thành – Trung Giang, đường 75 Đông,
đặc biệt đường Hồ Chí Minh, đường 74.
[72]Giai đoạn 2005 - 2010 tổng số vốn đầu tư 347,7 tỷ đồng,
tăng gấp 2,35 lần so với giai đoạn 2000- 2005.
[73]Giữ vững và nâng cao chất
lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập THCS. Phong trào xây
dựng trường chuẩn quốc gia được triển khai tích cực. Đến năm 2010 có thêm 9
trường mầm non, 06 trường tiểu học, 07 trường THCS đạt chuẩn quốc gia, nâng
tổng số lên 41 trường, chiếm 66,38%. Năm 2010, có 18/21 xã, thị trấn đạt chuẩn
quốc gia về y tế, chiếm 85,7% vượt 35,7% KH.
[74]Năm 2010, có 81,5 làng, bản, khu phố, cơ quan
được công nhận đơn vị văn hóa (2005 mới có 41,7%); có 14.615 hộ gia đình được
công nhận đạt tiêu chí gia đình văn hóa, chiếm 81,2%.
[75]Có 18/21 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y
tế, chiếm 85,7 %, vượt 35,7% kế hoạch.
[76]Đến năm 2010 có 47 làng, bản, khu phố đã phát
động xây dựng mô hình làng không có người sinh con thứ 3 trở lên. Tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên dưới 1%.
[77]Tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể từ 33% năm 2005
xuống còn 14,22% năm 2010.
[78]Giai đoạn 2000-2010, đào tạo cao cấp cho 79 đ/c,
trung cấp chính trị 272 đ/c, chuyên môn nghiệp vụ 139 đ/c, quản lý nhà nước
69đ/c , trong nhiệm kỳ 2005-2010 đã kết nạp được 631 đ/c, tăng 105 d/c so với
nhiệm kỳ 2000-2005, đạt 100% Nghị quyết đề ra, nâng tổng số đảng viên trong
toàn Đảng bộ lên 2.691 đ/c. Trong giai đoạn 2000-2010, đã giảm được 10 thôn,
bản không có đảng viên.
[79]Trong giai đoạn 2000-2010, BTV Huyện ủy, UBKT
Huyện ủy đã tổ chức được 95 cuộc kiểm tra, giám sát trên tất cả các lĩnh vực
đối với các tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên. Cấp ủy, UBKT các cấp đã xử lý kỷ
luật 20 tổ chức Đảng, 144 đảng viên.
[80]Đại
hội bầu 41 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Ban Thường vụ gồm 11 đồng
chí, đồng chí Phan Văn Phụng được bầu giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy, đồng
chí Lê Quang Chiến giữ chức vụ Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy, đồng chí Nguyễn
Huy Hùng được bầu giữ chức vụ Phó Bí thư - Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện.
[81]Đại hội đã bầu BCH Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015 -
2020 gồm 41 đ/c, BTV huyện ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Lê Quang Chiến được bầu
giữ chức vụ Bí thư Huyện ủy; đồng chí Nguyễn Văn Giảng giữ chức vụ Phó Bí thư
Thường trực Huyện ủy; đồng chí Trần Ngọc Lân giữ chức vụ Phó Bí thư Huyện ủy -
Chủ tịch UBND Huyện.
[82]Vùng
đồng bằng: tập trung đẩy mạnh dồn điền đổi thửa, cơ giới hóa
trong sản xuất. Tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng có giá trị kinh tế cao.
Phát triển vùng chuyên canh cá, cá – lúa dọc sông Cánh Hòm. Vùng gò
đồi, miền núi:ban hành Chương trình phát triển kinh tế vùng gò đồi, miền núi, đẩy
mạnh phong trào cải tạo vườn tạp, mở rộng diện tích các loại cây lâu năm như
cao su, hồ tiêu, các loại cây ăn quả có giá trị. Phát triển kinh tế trang trại,
gia trại, phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp. Thực hiện tốt công tác chăm
sóc, bảo vệ, phát triển rừng, khuyết khích trồng rừng sản xuất đạt chứng chỉ
FSC. Vùng cát, miền biển:ban hành Chương trình phát triển kinh tế vùng biển, tiếp
tục đẩy mạnh việc di dân ra vùng cát. Hình thành các trang trại tổng hợp, điều
chỉnh quy hoạch nuôi thủy sản trên cát theo hình thức VAC. Tiếp tục triển khai
thực hiện có hiệu quả Nghị định 67/ND-CP của chính phủ về một số chính sách
phát triển thủy sản. Đầu tư phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ, chuyển đổi các
nghề mới gắn với phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá, mở rộng quy mô các cơ sở
chế biến nâng cao giá trị sản phẩm, tích cực xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị
trường tiêu thụ.
[83]Giá trị sản xuất bình quân hằng năm tăng 9,03%
(NQ 9-9,5%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, nông - lâm - ngư nghiệp từ 53% năm 2010 giảm xuống còn
46,47% năm 2015, đến năm 2020 còn 28,1%. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng tăng từ 15% năm 2010 tăng lên 25,64% năm 2015, đến năm 2020 tăng lên
43,7%. Thương mại - dịch vụ từ
27,89 năm 2015 tăng lên 28,2% năm 2020. Thu nhập bình quân đầu
người từ 9,5 triệu đồng năm 2010 tăng lên 30,03 triệu đồng năm 2015, đến năm
2020 đạt 50 triệu đồng. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2020 đạt 8.770 tỷ đồng.
[84]Bưởi da xanh ở Hải Thái; ổi Đài loan, cam Vinh ở
Gio Bình(cho thu nhập 200-300 triệu/ha), trồng dưa lưới, trồng dứa ở Trung
Giang, lúa hữu cơ và tiêu thụ sản phẩm ở HTX Phước Thị, tiêu hữu cơ ở Gio An;
nuôi gà trang trại và nuôi tôm hai giai đoạn ở Trung Giang, sản xuất gạo nguyên
liệu ở Gio Quang.
[85]tỷ lệ Zê bu hóa đàn bò đạt trên 60%, (tăng
gấp 2 lần so năm 2015), nạc hoá đàn lợn nâng lên trên 95%; giá trị sản xuất
ngành chăn nuôi chiếm 25,62% trong ngành nông nghiệp.
[86]Đã đóng mới 21 tàu và nâng cấp 86 tàu với công suất
từ 400CV trở lên, nâng tổng số tàu thuyền toàn huyện lên 939 chiếc với tổng
công suất 80.474CV, trong đó có 169 tàu đánh bắt xa bờ.
[87]Nhàmáy ĐMT Lig-QT 50MWp đã
đưa vào vận hành khai thác, doanh thu mỗi năm đạt khoảng 150-170 tỷ đồng.
[88]Mở rộng QL1A, đường T100, đường tránh TP Đông
Hà. Đường dây 220KV mạch 2 và Đường dây 500KV), (nạo vét sông Cánh Hòm, Đường
2/4, Nâng cấp Hồ Kinh Môn và Đập Hoi 1-2, các Công trình Duy tu BDTX giao thông
dự án LRAMP...) đầu tư, công trình dự án của Doanh nghiệp (03 Nhà máy ĐMT, Xăng
dầu Hải Hà, Du lịch Biễn Vàng..) và của huyện đầu tư.
[89] Các sản phẩm được đăng ký nhãn hiệu bảo hộ và chỉ dẫn địa lý (rau xà lách xoong Gio An, nước mắm Khai
Hà, Hồng Gái, Huyền Đan, sứa-ruốc đặc-mắm sò Hoàng Việt, nước mắm Cửa Việt,
gạo Gio Quang, mướp đắng Lại An, bơ Gio Linh, cá khô Cửa Việt).
[90]Đến nay, toàn huyện có 175/180 khu dân cư, cơ
quan, đơn vị văn hóa, đạt 97,2%, (NQ 95%); có 18.282/20.544 hộ gia đình gia
đình văn hóa, đạt 89% (NQ 98%). Có 07 xã đạt chuẩn “văn hóa Nông thôn mới”.
[91]Có 17 trường học được sáp nhập, giảm từ 60
trường xuống còn 43 trường. Công tác kiểm định chất lượng, xây dựng trường đạt
chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm, toàn huyện có 32/46 trường đạt chuẩn (tỷ
lệ 69,6%)
[92]Năm 2020, tỷ lệ người dân
tham gia BHYT đạt trên 95%, tăng 25% so với năm 2015, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi
bị suy dinh dưỡng 7%, giảm 8% so với năm 2010
[93]Từ 2010- 2020, đã đào tạo
cao cấp LLCT cho 80 đồng chí, Trung cấp chính trị 590 đồng chí. Hằng năm, có
hàng trăm lượt cán bộ được đào tạo sơ cấp lý luận chính trị và đại học chuyên
môn, nghiệp vụ quản lý Nhà nước.
[94] Tính đến tháng 6/2021, tổng số đảng viên
trong toàn huyện là 4.315 đảng viên và 38 TCCS Đảng trực thuộc.
[95]Từ năm 2010 - 2020, Cấp ủy, Ban Thường vụ Huyện
ủy, Ủy Ban kiểm tra Huyện ủy và các ban Đảng Huyện ủy đã tiến hành 698 cuộc
kiểm tra, giám sát trên tất cả các lĩnh vực đối với các tổ chức Đảng và đảng
viên. Trong 10 năm từ 2010-2020, đã xem xét xử lý kỷ luật 21 tổ chức Đảng và
293 đảng viên.
[96]Kết quả, sau sáp nhập
(9/2020), trên địa bàn huyện Gio Linh từ 21 xã, thị trấn giảm còn 17 xã, thị
trấn; từ 133 thôn, khu phố giảm xuống còn 97 thôn, khu
phố.